Bầu cử Mỹ 2024: Cuộc chiến chính sách tài khóa không hồi kết
Ngọc Lan
Junior Editor
Lấy lòng cử tri là chiến thuật phổ biến trong các chiến dịch bầu cử. Tuy nhiên, những đề xuất chính sách thuế trong cuộc đua Tổng thống lần này đang thiết lập những tiêu chuẩn mới về mức độ táo bạo và thiếu thận trọng trong việc đưa ra cam kết.
Minh chứng rõ nét nhất cho xu hướng này ở cả hai đảng chính là kế hoạch miễn thuế thu nhập đối với tiền boa. Donald Trump khởi xướng ý tưởng này vào tháng 6, không lâu sau, Kamala Harris cũng hưởng ứng khi bà nhập cuộc. Cả hai đều tung ra lời hứa hẹn này tại Nevada - bang chiến địa, nơi có khoảng 5% lực lượng lao động có nguồn thu từ tiền boa (cao hơn mức trung bình toàn quốc là 2%). Với chiến thắng sát nút chỉ 34,000 phiếu của Tổng thống Joe Biden tại đây vào năm 2020, việc chinh phục được một bộ phận trong số 350,000 nhân viên ngành dịch vụ có thể tạo nên bước ngoặt.
Tuy nhiên, nếu gạt bỏ yếu tố tính toán bầu cử, đề xuất này hoàn toàn không hợp lý. Đa phần người nhận tiền boa thuộc nhóm thu nhập thấp. Nhiều người trong số họ sẽ không được hưởng lợi hoặc chỉ hưởng lợi không đáng kể, bởi thu nhập của họ đã thấp hơn ngưỡng chịu thuế do Sở Thuế vụ Hoa Kỳ (IRS) quy định.
Trong bối cảnh một số nhà lãnh đạo ngành dịch vụ khách sạn đang nỗ lực chuyển hướng từ văn hóa tiền boa sang chế độ lương thưởng bền vững và có tính hệ thống hơn, chính sách này có thể gây ra tác dụng ngược, làm suy giảm tổng thu nhập của người lao động. Hơn thế nữa, điều này còn tạo ra động cơ sai lệch cho cả người lao động lẫn chủ doanh nghiệp trong việc gán nhãn lương và tiền công thành tiền boa, tiềm ẩn nguy cơ tạo ra một lỗ hổng khổng lồ trong ngân sách liên bang.
Hệ quả của nguồn thu bị thất thoát này sẽ dẫn đến việc cắt giảm dịch vụ công, hoặc tăng gánh nặng thuế đối với các nhóm lao động khác - hoặc điều có khả năng xảy ra nhất là làm trầm trọng thêm tình trạng nợ công liên bang. Tuy nhiên, ước tính thiệt hại khoảng 10 tỷ USD mỗi năm vẫn còn khiêm tốn so với những cam kết về thuế đầy tham vọng khác của các ứng cử viên.
Danh mục các đề xuất cắt giảm thuế mơ hồ của Trump dường như không có giới hạn. Gần đây, ông đã đề cập đến việc miễn thuế cho An sinh Xã hội và tiền làm thêm giờ, một đề xuất có thể tiêu tốn hàng nghìn tỷ USD trong vòng một thập kỷ. Chưa kể đến khoản chi khoảng 4 nghìn tỷ USD để gia hạn toàn diện Đạo luật Cắt giảm Thuế và Việc làm năm 2017, như ông đã cam kết. Hoặc chi phí để hạ thuế suất doanh nghiệp xuống 15% cho các công ty sản xuất hàng hóa trên đất Mỹ.
Ông Trump khẳng định rằng những tổn thất to lớn về nguồn thu do các chính sách ưu đãi này gây ra sẽ được bù đắp bằng thuế nhập khẩu 20% áp dụng chung và ít nhất 60% đối với hàng hóa từ Trung Quốc. Theo ông, đương nhiên, gánh nặng này sẽ do người nước ngoài gánh chịu. Phải chăng chúng ta đang nghe thấy sự lặp lại của một câu chuyện đã quá quen thuộc?
Thuế quan cao đồng nghĩa với nguy cơ bùng nổ chiến tranh thương mại, giá cả tiêu dùng và lạm phát leo thang đối với người dân Mỹ, và rất có thể dẫn đến suy thoái kinh tế cùng làn sóng thất nghiệp. Đây quả thực là một công thức dẫn đến thảm họa.
Đối chiếu với Trump, các đề xuất thuế của Harris có vẻ như hiện thân của sự thận trọng trong chính sách tài khóa. Tuy nhiên, chúng cũng không kém phần gây tranh cãi.
Harris công bố kế hoạch mở rộng tín dụng thuế cho trẻ em và các khoản trợ cấp khác, đồng thời hỗ trợ thanh toán đặt cọc cho những người lần đầu mua nhà, và gia hạn Đạo luật Cắt giảm Thuế và Việc làm cho các hộ gia đình có thu nhập dưới 400,000 USD một năm. Bà cam kết rằng nguồn tài chính cho những chính sách hào phóng này sẽ không đến từ người nước ngoài, mà từ 3% hộ gia đình giàu có nhất tại Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ngay cả khi tăng thuế đối với nhóm này - cùng với việc nâng thuế suất doanh nghiệp từ 21% lên 28% và tăng thuế lãi vốn đối với thu nhập trên 1 triệu USD như bà đề xuất - vẫn còn thiếu hụt hàng nghìn tỷ USD để bù đắp cho khoản thâm hụt dự kiến.
Bloomberg