Các nhà hoạch định chính sách có nên tranh luận công khai?
Trần Phương Thảo
Junior Analyst
Sự chia rẽ không phải lúc nào cũng không tốt
Nhiệm kỳ của Jerome Powell với tư cách là chủ tịch Fed đã rất thành công. Nhưng vào ngày 31 tháng 7, ông có thể đã vấp ngã khi tuyên bố rằng lãi suất sẽ vẫn ở mức 5.25-5.5%. Ngay sau đó là dữ liệu việc làm yếu kém bất ngờ. Các thị trường trên toàn thế giới sau đó lao dốc khi các nhà đầu tư lo ngại rằng Fed đã tụt hậu.
Trong khi đó, các nhà hoạch định chính sách của Ngân hàng Anh (BoE) đang ngồi thoải mái như mong đợi trong hoàn cảnh này. Vào ngày 1 tháng 8, BoE đã tuyên bố cắt giảm lãi suất từ 5.25% xuống 5%. Thoạt nhìn có vẻ là một câu chuyện đơn giản về phán đoán tốt hơn nhưng thực tế lại tiết lộ những sự thật sâu sắc hơn về cách chính sách tiền tệ được thiết lập. Quyết định của BoE được đưa ra với tỷ lệ phiếu bầu rất sít sao. Năm thành viên dovish đã bỏ phiếu cắt giảm lãi suất trong khi chỉ có bốn đồng nghiệp hawkish muốn giữ vững lập trường. Fed, vốn coi trọng sự đồng thuận hơn nhiều, sẽ không có khả năng chứng kiến sự chia rẽ như vậy. Ở nhiều quốc gia khác, điều đó là không thể: các nhà hoạch định chính sách tiền tệ tranh luận sau cánh cửa đóng kín và sau đó thể hiện mặt trận thống nhất trước công chúng.
Các nhà kinh tế hiện nay đều nhất trí về cách thức hoạt động của một ngân hàng trung ương. Ngân hàng phải độc lập, thay vì tuân theo ý thích của các chính trị gia. Ngân hàng phải tập trung vào việc kiểm soát lạm phát trong trung hạn. Và ngân hàng này phải có đội ngũ chuyên gia kỹ trị sáng suốt được bổ nhiệm dựa trên năng lực. Tuy nhiên, vẫn còn một câu hỏi chưa có lời giải đáp. Chính xác thì các ngân hàng trung ương nên thiết lập chính sách tiền tệ như thế nào? Vấn đề không phải là cách tiếp cận hawkish hay dovish là tốt hơn, mà là về cơ chế ra quyết định - một vấn đề vẫn còn rất nhiều sự khác biệt.
Cho đến năm 2019, Ngân hàng Dự trữ New Zealand, thường là đơn vị đi đầu trong đổi mới chính sách tiền tệ, đã áp dụng một cách tiếp cận cực đoan. Thống đốc RBNZ chỉ đơn giản là tự mình thiết lập lãi suất. Việc New Zealand chuyển sang hệ thống ủy ban là sáng suốt, vì cấu trúc như vậy sẽ giảm thiểu rủi ro rằng người đang tại vị có thể không đủ khả năng hoàn thành công việc. Vào những năm 2000, các nhà nghiên cứu đã tiến hành các thí nghiệm với sinh viên kinh tế tại Trường Kinh tế London, Đại học Princeton và Đại học California. Các thí nghiệm này sử dụng một mô hình kinh tế đơn giản do máy tính điều hành, chịu tác động của các cú sốc ngẫu nhiên. Sinh viên phải phản ứng bằng cách thay đổi lãi suất và được chấm điểm dựa trên khả năng duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức 5% và lạm phát ở mức 2% trong suốt 20 quý tài chính. Trong mọi trường hợp, các ủy ban đều vượt trội hơn các cá nhân. Thật vậy, một khối lượng lớn công trình thực nghiệm cho thấy các ủy ban được điều hành tốt giúp làm dịu các quan điểm cực đoan, loại bỏ phán đoán kém và cung cấp nhiều sự bảo vệ hơn khỏi cả áp lực chính trị và cá nhân.
Ngoài câu hỏi tương đối đơn giản về việc liệu lãi suất nên được thiết lập bởi một cá nhân hay một nhóm, sự khác biệt trong cách thiết lập chính sách tiền tệ giữa các cá nhân và các ủy ban cũng được đặt lên bàn cân. Trong mô hình cá nhân, các nhà hoạch định chính sách bày tỏ quan điểm của riêng mình, tranh luận về vị trí chính sách mong muốn và sau đó bỏ phiếu cho hành động mà họ cho là thích hợp, với các phiếu bầu sau đó được công bố. Các thành viên có thể thể hiện sự không đồng thuận trước công chúng. Ngược lại, trong một hệ thống tập thể, cách tiếp cận là tranh luận về các lựa chọn và sau đó đi đến quyết định tập thể, mà tất cả các thành viên đều ủng hộ. Tại ECB, mục tiêu là đạt được sự đồng thuận và hồ sơ bỏ phiếu của cá nhân không được công khai.
Fed là một tổ chức lai ghép. Các thành viên của Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC) có thể đi theo con đường riêng của họ và hồ sơ bỏ phiếu của từng cá nhân được công bố. Đồng thời, tổ chức này coi trọng tinh thần đồng chí. Alan Blinder, một nhà kinh tế học tại Princeton và là cựu thành viên FOMC, đã lập luận rằng dưới thời Alan Greenspan, chủ tịch Fed từ năm 1987 đến năm 2006, FOMC là một "hệ thống đồng chí chuyên quyền", trong đó chủ tịch ra lệnh cho sự đồng thuận và các thành viên khác được kỳ vọng sẽ tuân theo. Một cuộc bỏ phiếu chia rẽ, ông Greenspan đã từng thuyết giảng cho các đồng nghiệp, sẽ có nguy cơ "gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho tổ chức này". Dưới thời Ben Bernanke, Janet Yellen và ông Powell, Fed ít bị chi phối bởi một cá nhân hơn. FOMC bao gồm bảy thống đốc Fed thường trực, cùng với chủ tịch Fed New York và bốn trong số 11 chủ tịch Fed khu vực khác theo chế độ luân phiên. Không có thành viên FOMC nào phản đối quyết định chính sách kể từ năm 2005, nhưng các chủ tịch sẵn sàng đi ngược lại xu hướng.
Hệ thống nào là tốt nhất? Câu hỏi này cũng giống như việc hỏi xe số tự động hay số sàn tốt hơn—tùy thuộc vào mục đích của bạn. Các ủy ban theo chủ nghĩa cá nhân thường hành động nhanh hơn. Việc giành được năm phiếu bầu trong số chín thành viên của Ủy ban Chính sách Tiền tệ của BoE để thay đổi chính sách dễ hơn là tạo ra sự đồng thuận gần như tuyệt đối tại ECB hoặc Fed. BoE là một trong những ngân hàng trung ương của các quốc gia giàu có sớm nhất bắt đầu thắt chặt chính sách vào năm 2021 và là một trong những ngân hàng đầu tiên bắt đầu cắt giảm trong năm nay. Một hệ thống như vậy cũng bảo vệ chống lại nguy cơ của tư duy nhóm.
Tuy nhiên, sự nhanh nhẹn này phải trả giá. Mặc dù nhu cầu đồng thuận có thể làm chậm quá trình ra quyết định, nhưng nó cũng cho phép các nhà hoạch định chính sách lên tiếng rõ ràng với thị trường tài chính và tránh được sự hỗn loạn của các tín hiệu mâu thuẫn, gây nhiễu thị trường. Khi nói đến chính sách tiền tệ, lộ trình dự kiến của lãi suất có thể là một công cụ quan trọng như mức lãi suất hiện tại. Khả năng gửi cho thị trường một thông điệp duy nhất là cực kỳ hữu ích.
Hầu hết thời gian, ảnh hưởng đến kỳ vọng lãi suất có giá trị hơn sự nhanh nhẹn. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Hãy tưởng tượng một tình huống trong đó có những dấu hiệu cho thấy thị trường lao động đang suy yếu, lạm phát vẫn cố chấp ở mức cao hơn mục tiêu và thị trường đang hỗn loạn. Tại một điểm uốn như vậy, khi cần thay đổi chế độ chính sách tiền tệ, có lẽ tốt hơn là nên cởi mở hơn về sự bất đồng. Lần này, tốt hơn là trở thành người Anh thay vì người Mỹ.
The Economist