Sự trở lại của Trump sẽ chấm dứt sự thống trị của đảng Tự do Hoa Kỳ
Quỳnh Chi
Junior Editor
Người châu Âu nên kiềm chế đặt quá nhiều kỳ vọng vào chiến thắng của Đảng Dân chủ, và thay vào đó hãy hành động như thể nhiệm kỳ thứ hai của Donald Trump là điều chắc chắn.
Có thể thấy rõ niềm vui của giới lãnh đạo châu Âu về quyết định từ chức muộn màng của Joe Biden. Trước cuối tuần, châu Âu gần như đã chấp nhận một nhiệm kỳ tổng thống của Trump và sự kết thúc của trật tự tự do thời hậu chiến. Liệu sự chú ý của công chúng giờ đây sẽ chuyển từ việc chỉ trích Biden sang tập trung vào Trump? Và liệu người Mỹ có ủng hộ Kamala Harris, người đã nhanh chóng giành đủ phiếu bầu cho đề cử của Đảng Dân chủ, và ở tuổi 59 trẻ trung hơn so với Trump 78 tuổi, như Đảng Dân chủ sẽ liên tục nhắc nhở?
Câu trả lời thận trọng nhất là: Đừng vội vàng. Trump vẫn là ứng cử viên hàng đầu cho cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11, dẫn đầu trong các cuộc thăm dò, đặc biệt tại những bang quan trọng có thể xoay chuyển kết quả bầu cử. Những người ủng hộ trung thành của Trump vẫn hết lòng tôn sùng ông. Hiện nay, tâm lý cử tri trên toàn cầu đang không ủng hộ các chính trị gia đương nhiệm, như chúng ta đã thấy qua trường hợp của Rishi Sunak, Emmanuel Macron và phần nào đó là Narendra Modi. Biden đã chần chừ rất lâu mới quyết định rút lui, và thực tế ông đã rất miễn cưỡng làm điều đó, bất chấp những nỗ lực gán cho ông danh hiệu Cincinnatus thời hiện đại. Và Harris là một ứng cử viên yếu, chiến dịch tranh cử tổng thống của bà đã thất bại vào năm 2020 và trong vai trò phó tổng thống phụ trách vấn đề biên giới phía Nam, bà cũng chưa có nhiều thành tựu đáng kể.
Hướng hành động đúng đắn nhất cho người châu Âu là kiềm chế hy vọng và chuẩn bị cho nhiệm kỳ thứ hai của Trump - một nhiệm kỳ sẽ cứng rắn hơn nhiều so với nhiệm kỳ đầu tiên. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, tổng thống đã được bao quanh bởi những người Cộng hòa thuộc thể chế, những người kiểm soát những xung động nguy hiểm hơn của ông như rút khỏi NATO. Lần này, ông sẽ được bao quanh bởi các nhà hoạt động MAGA, những người sẽ tiếp thêm sức mạnh cho sự ghét bỏ bản năng của Trump đối với trật tự tự do, đồng thời mở rộng thành một thái độ thù địch mang tính triết học đối với chủ nghĩa tự do nói chung.
Một nhóm các nhà hoạch định chính sách MAGA do ứng cử viên phó tổng thống JD Vance dẫn đầu, đổ lỗi cho chủ nghĩa tự do dưới nhiều hình thức đã phá hủy "nước Mỹ thực sự": chủ nghĩa tự do kinh tế đã khiến nhiều công ty Mỹ chuyển sản xuất sang các nước có chi phí lao động thấp hơn, dẫn đến mất việc làm ở Mỹ; phá hủy đạo đức của tầng lớp lao động và chính sách đối ngoại can thiệp và cam kết bảo vệ các đồng minh đã khiến Mỹ phải gánh vác quá nhiều chi phí và trách nhiệm trong việc bảo vệ phương Tây, trong khi các nước khác không đóng góp tương xứng.
Trump nói rằng Mỹ sẽ không nhất thiết hành động để bảo vệ Đài Loan. Vance đã nhiều lần lập luận rằng Mỹ nên đặt giới hạn cho sự sẵn sàng hỗ trợ Ukraine. Và Elbridge Colby, ứng cử viên cho vị trí Cố vấn An ninh Quốc gia của Trump và, giống như Vance, là một cựu chiến binh Iraq đã trải qua hậu quả của sự tự phụ của phe tân bảo thủ, thường giải thích rằng châu Âu sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tự bảo vệ mình trước sự xâm lược của Nga. Mỹ chỉ có nguồn lực và sự kiên nhẫn hạn chế, và Trung Quốc là mối đe dọa trực tiếp hơn nhiều đối với lợi ích của Mỹ so với Nga.
Ngay cả khi Đảng Dân chủ giữ được quyền lực, tình hình cũng sẽ không trở lại "bình thường" như người châu Âu mong muốn. Sự rút lui của Mỹ khỏi vai trò toàn cầu đã bắt đầu từ thời Obama với chính sách "xoay trục" sang châu Á và việc miễn cưỡng can thiệp vào Libya. Thay vì đảo ngược các chính sách “Nước Mỹ trước tiê”n của Trump, Biden đã giữ nguyên hầu hết các mức thuế của người tiền nhiệm và thêm vào một chiến lược công nghiệp ưu tiên nước Mỹ. Nếu Harris làm tổng thống, bà sẽ phải đối phó với MAGA trong Quốc hội mà còn với các nhóm chống toàn cầu hóa trong chính đảng của mình, từ những người muốn bảo vệ việc làm của Mỹ đến những người chỉ trích chính sách đối ngoại "đế quốc".
Các đồng minh châu Âu của Mỹ không chỉ đối mặt với bốn năm nữa dưới thời Trump. Chúng ta đang nhìn vào một thế giới mới, nơi Mỹ - cường quốc tự do vĩ đại - đang rút lui khỏi vị thế bá chủ hoặc từ bỏ chủ nghĩa tự do, hoặc có thể là cả hai.
Trong hai thế kỷ qua, thế giới đã hưởng lợi rất lớn từ việc có một cường quốc phụ trách các vấn đề toàn cầu: trước tiên là Anh Quốc sau khi kết thúc Chiến tranh Napoleon, và sau đó là Hoa Kỳ sau Thế chiến thứ hai. Hai cường quốc này đã cung cấp những "hàng hóa công cộng" quan trọng - họ giữ cho các vùng biển - "đường cao tốc thế giới" - không có cướp biển, cung cấp hoặc bảo đảm các đồng tiền dự trữ toàn cầu, cứu hệ thống tài chính toàn cầu khỏi các cuộc khủng hoảng định kỳ và đôi khi tạo ra cơ sở hạ tầng toàn cầu như cáp quang biển và internet. Họ cũng mang lại cho chính trị toàn cầu một khuynh hướng tự do mạnh mẽ bằng cách tạo ra niềm tin vào quyền cá nhân, pháp quyền và các giá trị dân chủ.
Thật dễ dàng để chế nhạo khái niệm về các cường quốc tự do. "Bá quyền" chẳng phải chỉ là một từ hoa mỹ cho "đế quốc"? Và chủ nghĩa thực dân, chinh phục và lao động nô lệ có gì là "tự do"? Điều đáng chú ý về cả Anh và Mỹ là, không giống các cường quốc trước đó, họ đã chấp nhận dân chủ, chấm dứt chế độ nô lệ, và trong trường hợp của Anh, đã giải thể đế chế của mình. Và dù chi phí của bá quyền là bao nhiêu, chỉ cần nhìn vào thập niên 1920 và 1930, người ta nhận ra rằng chi phí của việc không có một cường quốc thống trị còn cao hơn nhiều.
Năm 1918, Anh không còn sức mạnh kinh tế để bảo đảm trật tự toàn cầu. Nhưng gã khổng lồ kinh tế mới của thế giới, Hoa Kỳ, vẫn chưa có ý chí cũng như sự khôn ngoan chính trị để đảm nhận vai trò này. Quốc hội đã dứt khoát bác bỏ kế hoạch của Woodrow Wilson về việc thành lập Hội Quốc Liên để giám sát trật tự hậu chiến và sau đó thông qua một loạt biện pháp bảo hộ, đáng chú ý nhất là Đạo luật Smoot-Hawley năm 1930 tăng thuế quan đối với hàng trăm mặt hàng.
Kết quả là tình trạng hỗn loạn toàn cầu, trong đó các cường quốc đối địch phô trương sức mạnh, các nền kinh tế đối địch tham gia vào việc bảo hộ “ăn miếng trả miếng” và cuối cùng thế giới bị chia cắt bởi chiến tranh. Cú sốc của sự sụp đổ này lớn đến mức Mỹ sẵn sàng gánh vác gánh nặng quyền lực toàn cầu trong 80 năm tiếp theo. Nhưng kỷ nguyên đó đang kết thúc - và một tình trạng hỗn loạn toàn cầu mới đang đe dọa. Chủ nghĩa bảo hộ đang gia tăng. Nga và Trung Quốc đang tiến bước. Iran đang gây rắc rối. Cướp biển đang đe dọa thương mại toàn cầu. Và những tiếng vang của cuối thập niên 1930 ngày càng trở nên rõ ràng hơn.
Cách duy nhất để ngăn chặn những điều này trở nên tồi tệ hơn là châu Âu phải gánh vác nhiều hơn gánh nặng của bá quyền tự do. Điều này phải bắt đầu bằng việc tăng đáng kể chi tiêu quốc phòng. Bất chấp mọi tội lỗi, Trump đúng khi phàn nàn rằng châu Âu đã có thói quen dựa dẫm vào sức mạnh quân sự của Mỹ. Ông cũng đúng khi chỉ trích riêng Đức, không chỉ vì nước này chiếm một phần tư năng lực sản xuất của lục địa mà còn vì Đức đã đóng một vai trò đặc biệt thiếu trung thực khi núp bóng Mỹ trong khi bán máy móc công cụ cho Trung Quốc và nhập khẩu năng lượng từ Nga.
Một số quốc gia đã bắt đầu giải quyết vấn đề đầu tư thấp. Ba Lan đã dẫn đầu bằng cách tăng chi tiêu lên 5% GDP. Chính phủ Đảng Lao động của Keir Starmer đã báo hiệu rằng họ đang chuẩn bị cho một thế giới khó khăn hơn bằng cách công bố một cuộc đánh giá quốc phòng mới, do cựu tổng thư ký NATO, George Robinson, chủ trì. Nhưng Đức vẫn đang chần chừ bất chấp nhiều hành động khiêu khích từ Nga, bao gồm cả nỗ lực ám sát CEO của Rheinmetall AG, nhà sản xuất vũ khí lớn nhất của nước này. Đức chỉ chi 2% GDP cho quốc phòng, do dự không ngừng về việc cung cấp vũ khí cho Ukraine, và hiện chỉ triển khai 300 xe tăng so với 7,000 chiếc trong thập niên 1980.
Châu Âu cũng cần làm nhiều hơn để hỗ trợ mặt "tự do" trong công thức bá quyền tự do, đặc biệt nếu Trump lên nắm quyền và chuyển đổi Mỹ thành một siêu cường hậu tự do hoặc thậm chí chống tự do. EU có vị thế tốt để đóng vai trò này trong các tổ chức toàn cầu như Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới và Liên Hợp Quốc. Nếu không có gì khác, khối này thành thạo trong việc tạo ra các quan chức quốc tế. Nhưng đồng thời cũng phải tăng số lượng các chính trị gia tự do có khả năng diễn đạt. Các quan chức EU như Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen thường nói chuyện khô khan, thiếu sức hút. Là nhà lãnh đạo duy nhất của EU có thể đưa ra những lập luận lớn là Tổng thống Pháp Macron, nhưng ông đã mất ảnh hưởng. Điều này cho thấy EU nên bỏ qua mâu thuẫn về Brexit và tiếp cận lại với Anh.
Những ngày thế giới có thể dựa vào Mỹ để đóng vai trò lãnh đạo tự do toàn cầu giờ đã qua: những người ủng hộ chính sách biệt lập ở Mỹ đang quá mạnh và tình hình chính trị của nước này quá bất ổn để có thể tin tưởng vào vai trò lãnh đạo của họ.
Người châu Âu không còn có thể tiếp tục là "những bóng ma tại bữa tiệc" như nhà ngoại giao Harold Nicolson từng nói. Cách duy nhất họ có thể ngăn chặn sự lặp lại tình trạng hỗn loạn từng phá hủy lục địa của họ là đảm nhận một số nhiệm vụ mà Mỹ đã từng thực hiện - chi tiêu nhiều hơn cho quốc phòng, duy trì các tổ chức quốc tế và quan trọng nhất là chống lại sức hấp dẫn của chủ nghĩa dân tộc cực đoan bằng cách thể hiện những giá trị của hợp tác tự do.
Bloomberg