Các ngân hàng trung ương trên thế giới dường như đang có sự tương đồng về chính sách
Nguyễn Tuấn Đạt
Junior Analyst
Với việc ECB và BoC đã cắt giảm lãi suất trong tuần trước, sự chú ý giờ đây chuyển sang Fed. Nhưng chúng ta cần để ý bức tranh lớn hơn về chính sách tiền tệ toàn cầu. Càng xem xét cách các chính sách lãi suất tương tự được áp dụng cho các nền kinh tế rất khác nhau, chúng ta càng nên thắc mắc về sự giống nhau của các quyết định.
Kể từ đại dịch Covid-19, tiếp theo là chiến tranh Nga và Ukraine, Eurozone, Mỹ, Canada, Anh, Brazil, Mexico và hầu hết các khu vực tiền tệ lớn khác (ngoại trừ Nhật Bản) đều đã có những chính sách gần giống nhau. Họ có thể lập luận rằng đây là những cú sốc toàn cầu và do đó sự giống nhau này chỉ là điều có thể đoán trước được, nhưng điều này hoàn toàn sai lầm. Đúng, đây là cú sốc mang tính toàn cầu, nhưng con đường chung mà hầu hết các ngân hàng trung ương này đi theo chỉ ra rằng một số yếu tố kinh tế quan trọng khác dường như không còn quan trọng nữa.
Hãy xem xét những khác biệt sau đây giữa eurozone và Mỹ. Mỹ xuất khẩu thực phẩm và năng lượng, châu Âu nhập khẩu chúng. Mỹ xuất khẩu vũ khí và đạn dược, châu Âu nhập khẩu chúng. Mỹ là một đại dương cách xa khu vực chiến tranh ở Ukraine, EU đang tiếp nhận hàng triệu người tị nạn và đối mặt với rủi ro rõ ràng. Trong thời gian đó, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng vọt lên hơn 20% trong khi ở EU tỷ lệ này hầu như không tăng do sự khác biệt cơ bản về thị trường lao động và chính sách hỗ trợ. Sau khi áp dụng quan điểm tương tự ban đầu trong thời kỳ Covid-19, Mỹ đã duy trì việc mở rộng tài chính quy mô lớn hơn nhiều so với châu Âu. Cuối cùng, EUR không được sử dụng rộng rãi trong danh mục đầu tư thương mại, tài chính hoặc dự trữ như USD.
Ở Mỹ, xu hướng tiêu dùng và vay mượn của các hộ gia đình cao hơn nhiều so với ở Eurozone. Điều này thể hiện ở việc số tiền tiết kiệm dư thừa tích lũy được trong thời kỳ đại dịch bị rút đi nhanh chóng. Trong khi đó, hoạt động cho vay thương mại và bất động sản ở Mỹ đã chuyển từ các ngân hàng truyền thống sang các tổ chức cho vay tư nhân ở mức độ lớn hơn nhiều so với ở châu Âu.
Có thể những khác biệt về tập trung doanh nghiệp và chính sách chống độc quyền giữa hai khu vực sẽ tạo ra sự khác biệt trong hành vi định giá của họ. Và mặc dù việc tổ chức đã được tăng cường gần đây ở Mỹ, các công đoàn vẫn đóng một vai trò lớn hơn nhiều trong việc thiết lập mức lương ở châu Âu. Tuy vậy, bất chấp tất cả những tiềm năng này cản trở các quốc gia khỏi con đường lãi suất chung, những động thái lãi suất có quy mô và mức độ tương tự của các ngân hàng trung ương ở cả hai bờ Đại Tây Dương rõ ràng đang tương tự nhau vẫn có những tác động tương tự lên lạm phát, cho thấy sự tương đồng đáng chú ý trong cách mà chính sách tiền tệ hoạt động ở những nơi này.
Vì vậy, liệu những khác biệt về thể chế thị trường lao động, đường lối tài chính hay thậm chí năng suất lao động có thực sự tạo ra sự khác biệt đối với việc truyền tải tiền tệ và sự tồn tại của lạm phát? Đó là điều mà rất nhiều lý thuyết tiền tệ hiện đại nói với chúng ta. Trong cuốn sách Lạm phát mục tiêu năm 1998, Ben Bernanke, Thomas Laubach, Frederic Mishkin cho biết, trên thực tế, nếu một nền kinh tế thành lập một ngân hàng trung ương độc lập với mục tiêu lạm phát thấp, điều này sẽ tạo ra kỳ vọng lạm phát dài hạn hơn. Điều này có nghĩa là chính sách tiền tệ có thể phản ứng linh hoạt trước các cú sốc trong ngắn hạn, trong khi lạm phát vẫn sẽ quay trở lại mục tiêu nếu chính sách vẫn nhất quán.
Trong 4 năm qua, điều này đã trở thành sự thật. Và điều này xảy ra bất chấp sự khác biệt về cơ cấu kinh tế quốc gia và cách thức chính sách tiền tệ vận hành theo từng hệ thống. Một loạt tài liệu nghiên cứu gần đây của ngân hàng trung ương áp dụng mô hình do Bernanke và Olivier Blanchard phát triển cho Mỹ cũng mang lại kết quả tương tự. Dù có sự khác biệt trong cấu trúc và hoạt động của thị trường lao động giữa các quốc gia, những khác biệt này không phải là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ. Việc giải thích quá mức những khác biệt nhỏ như vậy về sự tồn tại của lạm phát sẽ chỉ dẫn đến việc điều chỉnh chính sách phản tác dụng.
Vậy những năm vừa qua đã dạy chúng ta điều gì? Người dân ở các quốc gia dân chủ và thu nhập cao không thích lạm phát. Do đó, các chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát của các ngân hàng trung ương được xem là hợp pháp và nhận được sự ủng hộ về mặt chính trị.
Các ngân hàng trung ương độc lập và mục tiêu lạm phát thấp và minh bạch là sự kết hợp phù hợp với những nước đã phát triển. Đây là lý do tại sao tất cả các nền kinh tế lớn, ngoại trừ Trung Quốc và các nền kinh tế có thu nhập trung bình đều áp dụng mô hình này. Khi các nhà lãnh đạo chuyên quyền ở Ấn Độ và Thổ Nhĩ Kỳ đã dựa vào ngân hàng trung ương của họ và đẩy lãi suất xuống bất chấp lạm phát gia tăng, họ đã phải trả giá một cách rõ ràng.
Mặc dù chính sách tiền tệ hiện tại rất hiệu quả trong việc kiểm soát lạm phát, nó không thể loại bỏ hoàn toàn các cú sốc kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên chú ý đến sự tương đồng trong chính sách của các ngân hàng trung ương gần đây.
Financial Times