Chiến tranh thương mại toàn cầu sắp xảy ra, và có thể không đơn thuần chỉ là chiến tranh thương mại
Nguyễn Tuấn Đạt
Junior Analyst
Chúng ta đang đứng trước một loạt các rủi ro lớn, không chỉ từ chiến tranh thương mại mà còn từ các căng thẳng quân sự và địa chính trị.
Cuộc bầu cử ở Vương quốc Anh và chiến dịch của Đảng Bảo thủ đều bị lung lay bởi cam kết đưa thanh niên 18 tuổi trở lại nghĩa vụ quân sự. Đây được nhiều nhà bình luận, thậm chí cả các cựu lãnh đạo quân đội cũng cho rằng không hợp lý khi tuyển sinh những thanh niên không có kỹ năng, không sẵn lòng khi các lực lượng vũ trang cần nhiều loại thiết bị, tương đương với 2.5% GDP được sử dụng để chi tiêu quốc phòng. Hơn nữa, bối cảnh kinh tế toàn cầu cũng đang rất nghiêm trọng.
G7 đã cảnh báo Trung Quốc về các hoạt động thương mại của nước này. Họ muốn sự hợp tác cân bằng và sẽ cân nhắc thực hiện các biện pháp trừng phạt để đảm bảo một sân chơi bình đẳng. Mỹ sắp hết hạn miễn trừ thuế quan đối với hàng trăm mặt hàng của Trung Quốc và EU có thể đang hướng tới mức thuế cao đối với xe điện của Trung Quốc. Ở những nơi khác, Trung Quốc đang yêu cầu Hàn Quốc duy trì chuỗi cung ứng ổn định khi Mỹ và thậm chí Brazil, Chile và Mexico gần đây đã tăng thuế đối với thép Trung Quốc. Và gần như chiến tranh thương mại toàn cầu sắp xảy ra.
Và đây có thể không đơn thuần chỉ là một cuộc chiến tranh thương mại. Trung Quốc vừa hoàn thành một cuộc tập trận quân sự khổng lồ, diễn tập phong tỏa Đài Loan và sẽ không tiếp nhận các phái đoàn quốc hội Mỹ tới Đài Bắc nữa. Hàng chục nghìn người Đài Loan xuống đường phản đối cuộc đảo chính quốc hội do Quốc dân đảng lãnh đạo nhằm làm suy yếu tân tổng thống, càng làm căng thẳng thêm tình hình an ninh quốc gia.
Nga rõ ràng muốn có lệnh ngừng bắn ở Ukraine. Tuy nhiên, khả năng xung đột leo thang hơn nữa dường như vẫn có nhiều khả năng xảy ra. Thật vậy, người đứng đầu NATO Stoltenberg hiện ủng hộ việc cho phép Ukraine sử dụng vũ khí phương Tây để tấn công lực lượng Nga, điều này sẽ khiến Nga cho rằng họ có chiến tranh với cả phương Tây chứ không chỉ Ukraine. Phản ứng của Nga rõ ràng có thể bao gồm cả sử dụng vũ khí hạt nhân với các nước châu Âu.
Mỹ vừa dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí cho Ả Rập Saudi. Cuộc chiến Israel-Hamas vẫn tiếp tục bất chấp các phán quyết gần đây của Tòa án Hình sự Quốc tế và Tòa án Công lý Quốc tế. Cuộc chiến của Israel với Hezbollah ở Lebanon tiếp tục leo thang. Phiến quân Houthi vừa tuyên bố cuộc tấn công đầu tiên không thành công vào một con tàu ở Địa Trung Hải và sẽ tiếp tục tấn công, điều này có thể khiến đóng cửa một tuyến đường thủy quốc tế lớn khác. Thậm chí phiến quân này có thể chia sẻ công nghệ quân sự đó với các lực lượng ở Đông và Tây Phi để tiếp tục chặn hoạt động vận chuyển của phương Tây đi theo tuyến đường thay thế. Giá cước vận chuyển đã tăng vọt và không có dấu hiệu dùng lại. Nga vừa đạt được thỏa thuận đổi cảng biển Đỏ với Sudan, có nghĩa là họ hiện đã có sức ảnh hưởng lớn và quân đội trải dài khắp Sahel.
Theo bài ‘Confronting Another Axis? History, Humility, and Wishful Thinking’ của Peter Zelikow. Mỹ sẽ chứng kiến sự phản kháng phối hợp từ Trung Quốc, Nga, Iran và Triều Tiên, những điều mà họ sẽ không thể chống lại được. Tác giả cho biết, “khả năng xảy ra chiến tranh toàn cầu nghiêm trọng có thể chỉ ở mức 20–30%. Nhưng đánh giá đó không làm chúng ta yên tâm.”
Mặc dù ông đồng ý rằng chuỗi cung ứng quốc phòng của Hoa Kỳ sẽ được xây dựng lại nhưng 1-3 năm tới sẽ đặc biệt nguy hiểm khi tất cả những điều này xảy ra. Ông đặc biệt cảnh báo: “Mỹ không có sáng kiến chiến lược trong cuộc xung đột hiện nay. Họ chỉ đang phản ứng bị động trước những hành động nước khác. Tôi tin rằng mối quan hệ giữa các nước đối đầu với Mỹ đang cải thiện. Và họ đang chuẩn bị nghiêm túc cho một thời kỳ đối đầu lớn.”
Tuy nhiên, thị trường đang mong muốn Fed cắt giảm lãi suất. Họ mong muốn Mỹ giữ lãi suất đủ thấp để mở rộng sản xuất quân sự: nhưng hiện tại điều đó cũng dẫn đến lạm phát cao hơn. Do đó, họ sẽ cần một chính sách tài khóa và tiền tệ vừa chặt vừa nới lỏng, giống như trường hợp trước khi họ triển khai chính sách tài chính toàn cầu tân tự do vào những năm 1980.
Bối cảnh hiện tại rất phức tạp với nhiều thách thức kinh tế và chính trị toàn cầu, đòi hỏi các chính sách thích ứng và phản ứng nhanh chóng. Chúng ta có thể thấy điều đó trong cuộc chiến thương mại toàn cầu đang rình rập và các chính sách được đưa ra ở Anh và Mỹ. Vì vậy, cấu trúc ngân hàng trung ương cũng phải thay đổi. Một thượng nghị sĩ Úc đã chỉ trích RBA và các ngân hàng trung ương phương Tây khác về sự hiểu biết hạn chế về chính sách tiền tệ và không thể ứng phó hiệu quả với các thách thức hiện tại:
- RBA không biết chính sách tiền tệ hoạt động như thế nào. Năm 1985, Paul Keating dỡ bỏ quyền kiểm soát vốn của chính phủ. Điều này có nghĩa là các ngân hàng tư nhân không còn bị hạn chế về số tiền họ có thể vay từ các ngân hàng nước ngoài và họ sử dụng số tiền đó vào mục đích gì.
- Các ngân hàng tư nhân có khoản nợ nước ngoài 8 tỷ USD vào năm 1985. Đến năm 2008, họ có khoản nợ nước ngoài 800 tỷ USD. Điều này đã nâng giá nhà từ gấp 4 lần thu nhập trung bình lên khoảng 12 lần thu nhập trung bình. Các ngân hàng hiện cho các hộ gia đình vay 70% và chỉ 30% cho doanh nghiệp. Ủy ban Hoàng gia Ngân hàng năm 1937 khuyến nghị rằng ngân hàng trung ương nên kiểm soát khối lượng tín dụng trong hệ thống thay vì các ngân hàng tư nhân.
- Năm 1992, RBA được độc lập và APRA được tách ra vào cuối những năm 1990. Các quan chức RBA có vẻ chưa hiểu rõ chính sách tiền tệ khi được hỏi tại sao họ không thành lập một ngân hàng cơ sở hạ tầng.
Vì vậy, chỉ số PCE của Mỹ có thể không phải là chỉ số quan trọng duy nhất cần tập trung vào.
Tất nhiên, thị trường tài chính thường không phản ứng mạnh mẽ trước các rủi ro lớn vì họ phủ nhận chúng, coi chúng là không đáng giao dịch, gặp khó khăn trong việc quyết định đầu tư cụ thể. Zelikow chỉ ra rằng: “Thật sự rất khó cho các nhà đầu tư khi họ thường không muốn hoặc không thể thừa nhận và phản ứng kịp thời với các rủi ro mới và không rõ ràng, dẫn đến việc họ thường không chuẩn bị tốt cho những thay đổi lớn.”
Zerohedge