Giá vàng hôm nay ngày 16/06: Giá vàng tiếp tục chịu áp lực trước những lo ngại Fed đem đến điều bất ngờ
Ngô Văn Thịnh
Economic Analyst
Vàng đang hướng tới ngày thứ tư suy yếu liên tiếp trước thềm cuộc họp chính sách của Fed tối nay.
Giá vàng trong nước:
Theo Eximbank, tính đến 09:00 sáng ngày 16/06:
Giá vàng miếng SJC 99.99 (loại 10 chỉ series 2 ký tự chữ và 1-2-5 chỉ):
- Mua vào: 5,650,000 VND/chỉ.
- Bán ra: 5,700,000 VND/chỉ.
Giá vàng miếng SJC 99.99 (loại 10 chỉ series 1 ký tự chữ):
- Mua vào: 5,636,000 VND/chỉ.
- Bán ra: 5,700,000 VND/chỉ.
Giá vàng thế giới:
Sự lo lắng rằng Fed sẽ bắt đầu đưa ra tín hiệu “taper” và biểu đồ dot plot chuyển sang dự báo tăng lãi suất vào năm 2023 đang đè nặng lên kim loại quý. Các quỹ ETF vàng cũng đang muốn duy trì sự thận trọng khi họ chấm dứt chuỗi mua ròng và đã bán ra khoảng 4.29 tấn theo dữ liệu mới nhất tổng hợp bởi Bloomberg. Tuy nhiên, nếu Fed tiếp tục tái khẳng định quan điểm duy trì chính sách hỗ trợ và không đưa ra manh mối nào về cắt giảm QE, thị trường có lẽ sẽ bước vào giai đoạn biến động thấp với rất ít yếu tố dẫn dắt.
Tính đến 09:00 sáng ngày 16/06, giá vàng thế giới giao ngay đang được giao dịch quanh mốc $1,855/oz
Giá xăng dầu trong nước:
Petrolimex giữ nguyên giá xăng dầu từ 15 giờ 00 ngày 27.5.2021
Ngày 12/4, giá xăng trong nước được Petrolimex niêm yết dao động ở mức từ 13,680 - 19,280 VND/lít tại vùng 1, từ 13,950 - 19,660 VND/lít tại vùng 2. Bên cạnh giá xăng, giá dầu hỏa vùng 1 là 12,820 VND/lít và vùng 2 là 13,070 VND/lít
Giá dầu thế giới:
Giá dầu leo thang đang là điệp khúc của các nhà giao dịch nổi tiếng trên thị trường hàng hóa, cho biết dầu thậm chí sẽ tiếp tục tăng trong năm nay. Tại hội nghị thượng đỉnh FT Commodities Global, Glencore Plc và Vitol Group đều cho biết họ dự báo giá dầu sẽ tăng thêm. Theo Giám đốc điều hành Trafigura, Jeremy Weir, thậm chí có khả năng giá dầu thô đạt 100 USD/thùng do thiếu hụt nguồn cung trong bối cảnh lượng đầu tư vào lĩnh vực này không nhiều.
- Tính đến 09:00 sáng ngày 16/06, giá dầu thô WTI Futures giao tháng gần nhất giao dịch tại $72.75/thùng, tăng 0.43%.
- Trong khi đó, giá dầu Brent Futures giao tháng gần nhất tăng 0.53% xuống mức 74.61$/thùng.
Chứng khoán trong nước và quốc tế:
Thị trường trong nước diễn biến tương đối trái chiều trong ngày hôm qua, với VN-Index tăng 0.41% lên 1,367.36 điểm; HNX-Index giảm 0.23%, còn 318.29 điểm. Khối lượng khớp lệnh trên HOSE đạt hơn 706 triệu đơn vị, giảm 1.26% so với phiên giao dịch trước. Khối lượng khớp lệnh trên HNX tăng 7.36% đạt gần 153 triệu đơn vị. Khối ngoại mua ròng trên sàn HOSE với giá trị hơn 95 tỷ đồng, bán ròng trên sàn HNX với giá trị hơn 2 tỷ đồng.
Chứng khoán châu Á chứng kiến phiên giao dịch trầm lắng vào thứ Tư sau khi các chỉ số ở Mỹ thoái lui khỏi mức cao nhất mọi thời đại, với các nhà đầu tư đang chờ quyết định chính sách từ Cục Dự trữ Liên bang. Biên bản sau cuộc họp sẽ bao gồm các dự báo cập nhật về lãi suất và dự báo kinh tế, và kỳ vọng là các quan chức sẽ đưa ra từ sớm bất kỳ kế hoạch “taper” nào. Hiện tại triển vọng trên thị trường chứng khoán vẫn rất tích cực và kể cả Fed có thu hẹp chính sách hỗ trợ thì theo dữ liệu lịch sử, cổ phiếu vẫn sẽ tăng giá.
Dow Jones: 34,299.34 (giảm 0.27%)
S&P 500: 4,246.58 (giảm 0.2%)
Nasdaq: 14,072.86 (tăng 0.71%)
DAX: 15,729.520 (tăng 0.36%)
Stoxx 50: 4,143.52 (tăng 0.26%)
NIKKEI 225: 29,336.62 (tăng 0.36%)
Ngoại tệ (tham khảo tỷ giá VCB cập nhật lúc 08:30 sáng ngày 16/06):
Trên thị trường FX, đồng USD nhìn chung ít thay đổi trong bối cảnh các nhà đầu tư chờ đợi những manh mối về “taper” từ Fed. Các đồng tiền hàng hóa như AUD, NZD và CAD là những đồng yếu nhất trong ngày hôm qua, khi những hàng hóa chính như đồng hay gỗ đều suy giảm đáng kể. Tâm lý có phần risk off lúc này cũng góp phần khiến các đồng có hệ số beta cao yếu đi, trong khi đó những đồng "safe haven" như JPY và CHF đều tăng giá, đóng cửa lần lượt tại 110.01 và 0.8983. Mặc dù báo cáo việc làm và tăng trưởng tiền lương tháng 5 tích cực tại Anh, đồng Cable vẫn mất 0.19% xuống 1.40843, có lẽ việc hoãn thời điểm mở cửa hoàn toàn nền kinh tế vẫn đang khiến thị trường lo ngại.
USD/VND: 22,850.00 - 23,050.00 (giảm 30 đồng)
EUR/VND: 27,244.97 - 28,381.73 (tăng 47 đồng)
GBP/VND: 31,889.59 - 32,889.50 (tăng 14 đồng)
JPY/VND: 204.34 - 212.87 (giảm 0.5)
CHF/VND: 25,128.96 - 25,916.88 (giảm 15 đồng)
AUD/VND: 17,432.74 - 17,979.34 (tăng 34 đồng)
CAD/VND: 18,620.02 - 19,203.86 (tăng 44 đồng)
Tổng hợp