James Harris: Cuộc đời và cái chết của một Trader giao dịch nội gián bí ẩn
Tùng Trịnh
CEO
Những điếu xì gà đắt tiền, chiếc Ferrari cổ điển sang trọng, những câu lạc bộ xa xỉ, và cái chết cô độc trong căn hộ tại London. James Harris đã sống cuộc đời của một trader giao dịch nội gián như thế nào?
Thời điểm người hướng dẫn tới gặp James Harris vào tháng 6 năm ngoái, anh ta đang nằm giữa hành lang bên ngoài căn hộ của mình, tay chân run rẩy, miệng thở hổn hển. Mặc dù đội cứu thương nhanh chóng chạy tới và sử dụng thuốc cấp cứu dành riêng cho những trường hợp sốc thuốc phiện, nhưng mạch của Harris chỉ trở lại trong thời gian ngắn. Ba phút sau, trader 42 tuổi người Anh tử vong.
Harris đã gặp rắc rối trong nhiều tháng, anh uống rượu và dùng rất nhiều cocaine trong căn hộ của mình, cách không xa Cung điện Buckingham, London. Khi khám xét căn hộ, cảnh sát tìm thấy những chiếc điếu hút thuốc phiện sứt mẻ, thuốc an thần và một chiếc điện thoại di động. Khi họ nâng thi thể lên xe cứu thương và chở đến nhà xác, chiếc điện thoại thứ hai đã rơi ra khỏi túi anh ta.
Điện thoại di động là công cụ làm việc chính của Harris. Chiếc rơi khỏi túi có lẽ là một trong số hàng chục chiếc mà anh đã sử dụng trong nhiều năm và sau đó vứt bỏ để tránh bị truy tìm. Thông qua các cuộc gọi, tin nhắn và các ứng dụng nhắn tin mã hóa, Harris đã kết nối với một mạng lưới các day trader ở hai đầu lục địa Âu-Mỹ, những kẻ chuyên thu thập nguồn tin nội bộ tại các ngân hàng và doanh nghiệp để thực hiện các giao dịch lớn. Theo các công tố viên, họ trao đổi những thông tin bí mật từ chuyện sát nhập doanh nghiệp, báo cáo doanh thu, tới các cuộc thử nghiệm y tế, họ giao dịch dựa trên thông tin thu về và kiếm lời hàng trăm triệu đô la.
Sau cái chết của Harris, những mảng tối của mạng lưới đã được phơi bày trong quá trình tố tụng tại tòa án. Vài ngày sau khi Harris qua đời, bạn của anh, Walid Choucair bị kết tội giao dịch nội gián ở London. Marc Demane Debih, một trader tại Geneva cũng bị bắt ở Serbia và bị dẫn độ sang Mỹ, đã nhận tội và khai tại tòa án New York rằng anh ta đã nhận tiền hoa hồng từ một nhân vật làm việc tại ngân hàng Goldman Sachs, cùng một số người khác trong mạng lưới, thông qua một tay kinh doanh tác phẩm nghệ thuật ở Pháp. Telemaque Lavidas, con trai của giám đốc công ty dược phẩm, đã bị kết tội làm rò rỉ bí mật công ty cho một trong những đối tác thương mại của Demane Debih, người mà các công tố viên cho rằng cũng dính líu tới mạng lưới giao dịch nội gián này.
Việc tái hiện lại cuộc đời của Harris, dựa trên các cuộc phỏng vấn với những người biết anh ta, đã giúp hoàn thiện những mảnh ghép còn thiếu của bức tranh. Hơn cả một trader, Harris còn là một tay trung gian, buôn bán thông tin để kiếm một phần lợi nhuận sau đó. Bạn bè nói rằng anh ta bảo vệ các nguồn tin của mình một cách thận trọng, thường hay phóng đại và đôi khi cũng tuồn ra những thông tin sai lệch.
Harris dính chàm trước Choucair, Demane Debih và Lavidas từ rất lâu. Anh ta bị bắt ở Mỹ vào năm 2012, nhận tội gian lận chứng khoán và đồng ý quay trở lại Anh để không bị vào tù ở New York. Anh ta hứa với thẩm phán rằng đó là lần cuối cùng mình buôn bán thông tin nội bộ. Vị thẩm phán tin Harris đã thay đổi và tha cho anh.
Nhưng chẳng bao lâu sau, Harris lại ngựa quen đường cũ. Sự hấp dẫn của tiền bạc và những thứ xa xỉ - chiếc Ferrari cổ điển màu đỏ, những điếu xì gà đắt tiền, và cả ma tuý, dường như quá khó để cưỡng lại đối với anh ta - con trai của một bác sĩ nhãn khoa, kẻ xuất thân chỉ là một cậu bé bán trà tại Sở giao dịch chứng khoán London. Theo những bạn giấu tên, cuộc đời Harris là một chuyến đi hoang dã, từ khởi đầu thấp hèn đến một trader thành đạt.
Harris kết thân với một nhóm trader chuyên chia nhau tiền hoa hồng từ các phi vụ tuồn thông tin nội bộ, kiếm hàng triệu đô la và tiệc tùng tại những câu lạc bộ xa xỉ hoặc trên du thuyền cập bến ngoài vịnh Monaco. “Anh ta rất biết hưởng thụ cuộc sống”, bạn bè của Harris nói, “và rất nam tính”. Những anh ta cũng có mặt tối: Một trader đã mô tả Harris như một “tên khốn hung hãn”. Trên người phủ kín hình xăm ở những vị trí dễ được áo sơ mi và quần dài che đi, anh ta là một nhân vật kỳ quặc trong số những trader thường lui tới những nơi chỉ dành cho người nổi tiếng hoặc hội viên, như Chiltern Firehouse và Tramp ở London, hay Les Caves du Roy ở Saint Tropez. Trong khi những người khác nói về thị trường tài chính suốt đêm dài, Harris lại thích bàn luận về âm nhạc và nghệ thuật, giới thiệu với bạn bè những đĩa nhạc hip-hop do Salazar Brothers và các nghệ sĩ đường phố Paul Insect và Banksy sản xuất.
Tại phiên tòa của mình, Choucair đã mô tả cách các trader trong mạng lưới hoạt động, những người khác trong nhóm cũng đã xác nhận phương thức này. Để tránh bị phát hiện, họ liên lạc với nhau qua những chiếc điện thoại rẻ tiền, đổi sang cái mới sau một vài tháng. Họ mua các hợp đồng CFD và sử dụng đòn bẩy lớn, lãi và lỗ có thể cao hơn nhiều so với khoản đầu tư ban đầu. Những kẻ tham gia mạng lưới đã trở thành chuyên gia trong việc săn lùng các vụ mua bán và sát nhập.
Lời khai của Demane Debih làm sáng tỏ vai trò của những người trung gian. Anh ta cho biết mình đã trả 12 triệu đô la cho John Dodelande, một tay buôn bán tác phẩm nghệ thuật người Pháp, để có nguồn tin từ những người làm trong các ngân hàng đầu tư ở London. Mặc dù vậy, Dodelande chưa bị buộc tội về bất kỳ hành vi sai trái nào.
Khi họ xây dựng xong vị thế giao dịch của mình, Harris, Choucair, Demane Debih và những người khác sẽ gọi cho các nhà báo, bao gồm cả một số người ở Bloomberg News. Nếu các phóng viên đồng ý viết một câu chuyện liên quan, giá cổ phiếu sẽ chạy và họ có thể kiếm bộn tiền. Chính sách của Bloomberg là không công bố bất kỳ thông tin nào mà không xác nhận thông tin đó với những người có liên quan trực tiếp. Chính sách này cũng cấm tiết lộ người đưa tin nếu một câu chuyện được xuất bản.
Năm 2011, Harris rời London, bay đến New York và trú tại khách sạn Mercer sang trọng. Một ngày nọ, nhìn thấy anh ta phóng vụt qua trên một chiếc xe hơi hào nhoáng, một phụ nữ 22 tuổi người Mỹ tên Michelle Gomolin đã đưa số điện thoại của cô cho người phục vụ khách sạn và nhờ anh ta đưa cho Harris. Sáu tháng sau, họ kết hôn và chuyển đến một căn hộ ở SoHo, dấn thân vào một chuyến “tàu lượn siêu tốc” mà ngay cả Harris khi đó cũng phải nói rằng anh ta muốn chuyển thành phim, Gomolin đã viết trong một lời tưởng nhớ trên Instagram sau khi anh qua đời.
“Anh đã đưa tôi đi chuyến du hành này trong nhiều năm, một chuyến đi mà tôi không bao giờ có thể rời khỏi,” Gomolin, người sau đó đã ly hôn với Harris, viết. “Anh đã từng ở trên đỉnh cao và cũng từng ở đáy vực sâu. Anh nếm đủ những ngày tháng huy hoàng và tăm tối. Anh là người xa hoa nhất, điên rồ nhất, lớn lao nhất mà tôi từng gặp. Anh bước đi như thể đang làm chủ thế giới, và với tôi anh là toàn bộ lý do tôi tồn tại”
Trong vòng một năm sau khi kết hôn, Gomolin đã phải bỏ ra 20,000 USD tiền bảo lãnh để đưa Harris ra khỏi tù. Anh ta đã bị các nhân viên FBI bắt vì gian lận chứng khoán, và vướng vào một vụ bê bối quốc tế liên quan đến cả con trai của cựu tổng thống Kyrgyzstan.
Harris đã tuồn các thông tin mật cho Eugene Gourevitch, người điều hành tài khoản chứng khoán trị giá 45 triệu đô la của Maksim Bakiyev, con trai nhà cựu lãnh đạo. Gourevitch bị bắt vào năm 2011 và đồng ý hợp tác với Bộ Tư pháp để phá bỏ mạng lưới giao dịch nội gián.
Gourevitch cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng anh được giới thiệu tới Harris thông qua vài người bạn. “Harris khoe anh ta có quan hệ với các luật sư và tay trong tại ngân hàng nhưng không bao giờ đề cập đến những cái tên cụ thể để bảo vệ nguồn thu nhập của mình,” Gourevitch nói. "Đôi khi thông tin của Harris rất chuẩn xác, nhưng đôi khi lại hoàn toàn sai."
Để giúp các nhà điều tra Mỹ, Gourevitch bắt đầu ghi âm các cuộc trò chuyện với các nghi phạm, bao gồm Harris và bạn của anh ta là Tayyib Ali Munir, khi đó là một trader của Brown Brothers Harriman & Co. Trong một cuộc nói chuyện vào đầu năm 2012, Munir nói với Gourevitch rằng anh ta có thể tiết lộ báo cáo thu nhập của các công ty trước khi chúng được công bố. nếu Bakiyev đồng ý trả một khoản hoa hồng 122,000 đô la. Munir cũng khoe rằng một số thông tin của anh ta đến từ một cựu giám đốc của Sở giao dịch chứng khoán New York.
Munir không cung cấp thông tin như đã hứa và không rõ liệu anh ta có nguồn tin tại sàn giao dịch thật hay không. Nhưng Harris đã xử lý sự cố này vài tuần sau đó. Một ngày trước khi công ty VimpelCom Ltd. của Nga báo lỗ ròng, Harris đã đưa cho Gourevitch bản báo cáo mà công ty này dự định công bố. Anh ta bảo Gourevitch bán khống VimpelCom và chia cho anh ta một nửa lợi nhuận, số tiền này sẽ thu về cho Harris khoảng 1 triệu USD. Gourevitch không thực hiện giao dịch nhưng sau đó cũng đã trả cho Harris 50,000 đô la.
Harris và Munir đều bị bắt và nhận tội. Harris bị kết án treo 2 năm có giám sát, còn Munir 3 năm. Harris bị tịch thu 50,000 đô la và một chiếc xe máy Ducati mà anh ta đã mua bằng tiền thu được từ gian lận chứng khoán. Gourevitch bị kết án 5 năm tù. Các cáo buộc chống lại Bakiyev đã được giảm nhẹ một vài tháng sau đó mà không có lời giải thích. Munir và luật sư của Bakiyev đã không trả lời các yêu cầu bình luận.
“Không có mức tiền phạt nào được áp dụng vì bị cáo không có bất kỳ tài sản nào, và không chắc anh ta sẽ có bất kỳ tài sản nào trong tương lai gần để nộp phạt,” Thẩm phán Jack Weinstein nói khi tuyên án Harris.
Harris trở lại Vương quốc Anh và thuê một căn hộ ở St. James’s, một khu phố độc nhất nằm giữa Cung điện Buckingham và giao lộ Piccadilly, nơi có những thợ may giỏi nhất London. Choucair đã làm chứng trong phiên tòa rằng anh ta vẫn đang trao đổi tiền hoa hồng với Harris vào cuối năm 2013 và nhật ký cuộc gọi giữa hai người được trình bày trước bồi thẩm đoàn cho thấy họ đã nói chuyện thường xuyên trước khi Choucair mua các hợp đồng CFD của tập đoàn bất động sản BRE Properties Inc. Malek, một nhân viên phòng tuân thủ tại UBS Group AG vào thời điểm đó, đã phạm tội làm rò rỉ thông tin bí mật về việc mua lại BRE cho Choucair. Không ai cáo buộc Harris đã làm điều gì sai trái.
Harris tái xuất một lần nữa ở London vào năm 2016, sau đó lại bặt vô âm tín ở Caribê. Anh ấy đã liên lạc lại vào đầu năm ngoái, chào hàng cổ phiếu và nhờ những người bạn cũ đầu tư thay mình, một cách để ẩn danh hoặc né giới hạn ký quỹ.
Trong phi vụ cuối cùng của mình, Harris đã thuyết phục một số người trong mạng lưới thay mặt mình mua các hợp đồng phái sinh có liên quan đến giá cổ phiếu của At Home Group Inc., một chuỗi bán lẻ đồ trang trí nhà của Hoa Kỳ.
Harris nói anh ta đang có trong tay bản sao chi tiết tài liệu về vụ sát nhập của At Home. Tài liệu đó hóa ra đã được chứng minh là bị làm giả, mặc dù phải đến vài ngày sau khi Harris tử vong chúng mới được đưa ra ánh sáng, khi công ty này giảm triển vọng lợi nhuận và cổ phiếu mất hơn một nửa giá trị. Do các giao dịch được thực hiện một cách không chính thức, những người bạn của Harris, những người thua lỗ trong vụ cá cược của anh ta, không có quyền yêu cầu bồi thường.
Vài ngày sau khi Harris qua đời, chiếc Ferrari màu đỏ của anh ta đậu bên ngoài Nhà thờ Chính thống giáo Hy Lạp Saint Sophia ở London, nơi gia đình và bạn bè tụ tập trong làn khói hương nghi ngút. Thi thể anh ta nằm bên dưới một mái vòm khảm vàng với hình ảnh Chúa Giê-su đang cúi mình trước cầu vồng. Quan tài của Harris được trang trí bằng hình ảnh của những tòa nhà chọc trời. Bạn bè và gia đình lại gần, nắm tay hoặc vuốt má anh ấy. Người thân mô tả người Harris là một kẻ thích chơi khăm tinh quái, một tâm hồn bồn chồn tràn đầy năng lượng và sự dịu dàng, với sứ mệnh trở thành những gì tốt nhất mà cuộc sống có thể dành tặng.
“Chỉ có anh, James, mới có thể sống trong một khách sạn năm sao,” một người bạn gái cũ, Olcay Gulsen, mặc một chiếc mũ trắng rộng vành và bộ đồ ren, nói giữa những tiếng nức nở. “Xa hoa quá. Những chiếc xe tuyệt vời, xì gà, mọi thứ. Nhưng đó không phải là điều khiến anh trở nên đặc biệt, mà là trái tim của anh, James. ”
Vào tháng 10, tại một tòa án nằm phía trên khu chợ nhộn nhịp ở phía tây thành phố London, nhà chức trách cho biết họ không tìm thấy điều gì đáng ngờ về cái chết của Harris: Anh ta đã ở nhà một mình vào sáng thứ Hai hôm đó, video giám sát cho thấy không có ai lui tới. Em gái của anh ta, Emily, khóc khi nhân viên điều tra nói rằng anh trai mình chết vì sốc thuốc. Nhân viên điều tra gọi đó là cái chết không may - không phải tự tử, không phải tai nạn, không phải do người khác, mà là kết quả của thứ rủi ro do anh tự nguyện chuốc lấy.