Nhìn lại nước Mỹ dưới thời Biden: Những quyết định đúng đắn thay đổi cục diện
Ngọc Lan
Junior Editor
Thật đáng tiếc khi cụm từ "đối phó với suy thoái", nhất là ở Anh nhưng không chỉ riêng ở đó, lại mang một ấn tượng tiêu cực đến thế. Hãy cùng nhìn nhận vấn đề này một cách chín chắn hơn, được chứ?
Nhiều quốc gia, từ Tây Ban Nha, Ai Cập đến Nhật Bản, đều đã qua rồi thời kỳ đỉnh cao quyền lực. Đối với hàng trăm triệu công dân của họ, việc quá trình này được xử lý khéo léo hay vụng về là điều vô cùng quan trọng. Công ty Ford không thể lặp lại thời kỳ huy hoàng giữa thế kỷ 20, nhưng 177,000 nhân viên của họ chắc chắn rất quan tâm đến cách công ty vượt qua giai đoạn khó khăn này. Vậy một người khi đã qua tuổi đôi mươi đang làm gì nếu không phải là đang học cách thích nghi với những thay đổi của cuộc sống?
Năm 1945, Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất sở hữu vũ khí hạt nhân. Đến tận năm 1960, họ vẫn chiếm 40% tổng sản lượng thế giới. Nhưng thời kỳ hoàng kim ấy đã qua và không thể lặp lại. Do đó, nhiệm vụ của mọi Tổng thống Mỹ giờ đây là điều chỉnh để thích nghi với vị thế mới. Joe Biden đã làm tốt công việc khó khăn này hơn nhiều người tiền nhiệm.
George W. Bush đã có tham vọng quá lớn, cuối cùng dẫn đến hậu quả tai hại khi đánh giá sai khả năng của Mỹ tại Iraq và Afghanistan. Barack Obama thì lại thu hẹp quá mức. Ông nghi ngờ khả năng vật chất và đạo đức của Mỹ trong việc tác động đến tình hình thế giới, nên đã do dự trước hành động gây hấn của Nga ở Crimea. Ông vạch ra lằn ranh đỏ về việc sử dụng vũ khí hóa học ở Syria nhưng lại không thực thi. Chúng ta chỉ có thể phỏng đoán xem thái độ thận trọng quá mức này đã khiến kẻ thù của phương Tây trở nên táo bạo đến mức nào trong những năm tiếp theo.
Vậy còn Donald Trump thì sao? Mặc dù thuộc đảng Cộng hòa, ông lại có nhiều điểm giống Obama hơn Bush. Bất chấp những lời hô hào ái quốc, Trump thực chất lại tin rằng Mỹ đang suy yếu. Những điều ông phản đối - thâm hụt thương mại, đồng minh dựa dẫm, can thiệp quân sự - đều cho thấy ông xem sức mạnh của Mỹ như một tài sản đang cạn kiệt cần được giữ gìn cẩn thận. Những người thuộc Đảng Cộng hòa thân cận với ông, nhóm "Ưu tiên Châu Á", coi mỗi khoản viện trợ cho Ukraine là lãng phí nguồn lực quý giá, đáng lẽ nên dùng để đối phó với mối đe dọa lớn hơn là Trung Quốc. Quan điểm này thoạt nghe có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, quan điểm đó lại bỏ qua việc thể hiện sức mạnh ở một nơi có thể mang lại lợi ích ở nơi khác (hãy thử hỏi: vị thế của Mỹ ở châu Á sẽ tăng hay giảm nếu để Ukraine sụp đổ?). Đồng thời, nó cũng thể hiện sự bi quan quá mức về sức mạnh của Mỹ.
Trong số các tổng thống gần đây, Biden đã tạo ra sự cân bằng tốt nhất. Ông không mạo hiểm như Bush - điều này không quá khó khăn. Điều khó khăn là không để những lo ngại về sự suy giảm của Mỹ khiến một cường quốc vẫn còn đầy tiềm lực trở nên do dự và thiếu quyết đoán.
Hãy nhìn vào cách Biden thể hiện sự cương quyết ở châu Âu. Cuối năm 2021, ông đã nhận ra Nga sẽ tấn công Ukraine và cảnh báo cả thế giới. Sau đó, ông viện trợ vũ khí đủ để Ukraine chống cự được kẻ xâm lược trong hơn 2 năm rưỡi, và vẫn đang tiếp tục. NATO, tổ chức đang loay hoay tìm lý do tồn tại khi Biden nhậm chức, giờ đã có thêm thành viên mới, còn các thành viên cũ thì đang tăng cường sức mạnh. Liên minh này, vốn là đòn bẩy giúp nhân lên sức mạnh của Mỹ, giờ đây đã được tiếp thêm sức sống mới và có thể duy trì ít nhất một thế hệ nữa.
Việc tập trung vào châu Âu không làm Biden xao nhãng châu Á. Ở đây, hiệp ước AUKUS - có thể sớm bao gồm cả Nhật Bản - đã củng cố ảnh hưởng của Mỹ. "Bộ Tứ" lần đầu tiên tổ chức họp cấp cao. Philippines và Việt Nam xích lại gần Mỹ hơn. Các tuyên bố của Biden về Đài Loan mạnh mẽ đến mức gần như thái quá (Những người ủng hộ "Ưu tiên Châu Á" có thể so sánh điều này với thời Trump).
Sự tự phụ từ lâu đã không còn là vấn đề của Mỹ. Thay vào đó, nguy cơ đáng lo ngại hiện nay là việc hành xử như một quốc gia đang suy yếu có thể trở thành một lời tiên tri tự thực hiện. Vậy làm thế nào Biden đã tránh được cái bẫy này?
Có vẻ Biden đã nắm bắt được điều cốt lõi về sự suy tàn của các cường quốc: nó diễn ra cực kỳ chậm chạp. Một đế chế có thể kéo dài thời kỳ huy hoàng của mình hàng thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ, ngay cả khi các đối thủ đã bắt đầu bào mòn nền tảng kinh tế của họ. Anh bắt đầu mất vị trí dẫn đầu về công nghiệp từ những năm 1800, nhưng lãnh thổ đế chế của họ vẫn tiếp tục mở rộng cho đến tận những năm 1920. Năm 1945, dù đã kiệt quệ và chìm trong nợ nần, họ vẫn trở thành 1 trong 5 thành viên thường trực của Liên Hợp Quốc. Nga cũng là một ví dụ cho thấy một quốc gia có thể duy trì ảnh hưởng toàn cầu ngay cả khi đã bước qua thời hoàng kim.
Edward Gibbon viết sáu cuốn sách về sự sụp đổ của đế chế La Mã không phải vì ông hay nói dài dòng, hay vì tình duyên trắc trở khiến ông tràn đầy năng lượng cần giải tỏa. Thực tế, sự suy tàn và sụp đổ của La Mã kéo dài trong một thời gian rất dài. Tác phẩm của ông, xuất bản cùng thời điểm với Cách mạng Mỹ, đôi khi được phân tích để rút ra bài học cho đế chế đang gặp khó khăn bên bờ sông Potomac từ đế chế đã tàn lụi bên bờ sông Tiber. Đây là một bài học quý giá: Giữa đỉnh cao của một đế chế và sự sụp đổ cuối cùng, vẫn còn rất nhiều điều có thể làm được. Có lẽ phải là một người bước vào vị trí tổng thống ở tuổi 78 mới thấu hiểu được điều này.
Financial Times