Rủi ro kép: Nền kinh tế Trung Quốc và thị trường trái phiếu
Thái Linh
Junior Editor
Trong nhiều tuần, PBOC đã lên tiếng về lo ngại bong bóng hình thành trên thị trường TPCP của nước này. Giờ đây, trọng tâm đã chuyển từ việc thảo luận về vấn đề này sang chuẩn bị can thiệp trực tiếp vào thị trường lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ.
Hôm thứ 6, PBOC cho biết họ đã đạt được thỏa thuận với một số tổ chức để vay trái phiếu dài hạn trị giá hàng trăm tỷ Nhân dân tệ để bán ra thị trường nhằm cố gắng đáp ứng nhu cầu. PBOC cho biết họ sẽ tiếp tục vay và bán trái phiếu không giới hạn và không có bảo đảm.
Các động thái này cho thấy quyết tâm của PBOC trong việc làm chậm dòng tiền đổ vào TPCP, vốn đã khiến lợi suất xuống mức thấp kỷ lục. PBOC lo ngại rằng những người mua như các ngân hàng khu vực có thể gặp rắc rối nếu lợi suất tăng đột ngột và giá trị khoản đầu tư giảm, dẫn đến khả năng xảy ra một cuộc khủng hoảng tương tự như sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon năm ngoái.
Các tín hiệu từ PBOC đã bắt đầu có tác dụng. Lợi suất TPCP kỳ hạn 10 năm, chạm mức đáy mọi thời đại là 2.18% vào tuần trước, đã tăng lên trên 2.3% vào thứ 2 sau khi PBOC công bố một công cụ can thiệp thị trường khác, cho biết họ sẽ bắt đầu mua lại trái phiếu tạm thời hoặc các hoạt động reverse repo nhằm cố gắng làm giảm sự biến động của lãi suất liên ngân hàng.
Tuy nhiên, một số nhà phân tích nghi ngờ rằng PBOC không thể giải quyết nhu cầu trái phiếu này mãi mãi khi nền kinh tế đang gặp khó khăn, sa lầy trong suy thoái bất động sản, trong đó giá cả hầu như không tăng và các nhà đầu tư thấy có rất ít nơi hấp dẫn khác để bỏ tiền mặt vào trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang suy yếu.
Julian Evans-Pritchard, bộ phận kinh tế Trung Quốc tại Capital Economics, cho biết trong một báo cáo công bố hôm thứ 6: “Các yếu tố đẩy lợi suất dài hạn đi xuống chủ yếu là do cơ cấu và khó có thể sớm đảo chiều”.
PBOC đã nhiều lần cảnh báo kể từ tháng 4 về làn sóng mua trái phiếu mạnh mẽ. Vào giữa tháng 6, Thống đốc PBOC Pan Gongsheng cho biết lợi suất là quá thấp và các quan chức ngân hàng này cũng nói với truyền thông nhà nước rằng mức lý tưởng cho lợi suất TPCP kỳ hạn 10 năm là từ 2.5% đến 3%.
Lợi suất TPCP kỳ hạn 10 năm và 30 năm
Đối với một số nhà phân tích, việc Trung Quốc khôi phục hoạt động can thiệp vào thị trường trái phiếu - lần gần đây nhất là vào năm 2007 - là hợp lý vào thời điểm các công cụ khác đang tỏ ra kém hiệu quả hơn trong tác động tới hệ thống tài chính. Trong khi nền kinh tế Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng, PBOC có thể gây ảnh hưởng lên các ngân hàng bằng cách tập trung vào việc kiểm soát nguồn cung cho vay. Nhưng họ đã phải suy nghĩ lại cách tiếp cận này khi nhu cầu tín dụng chậm lại và thanh khoản ngân hàng chuyển sang các tài sản khác như trái phiếu.
Câu hỏi ở đây là liệu PBOC có thể quản lý thị trường trái phiếu hay không sẽ càng trở nên quan trọng hơn khi Trung Quốc có kế hoạch phát hành thêm hàng nghìn tỷ Nhân dân tệ dưới dạng trái phiếu dài hạn trong những năm tới để tăng đòn bẩy và chi tiêu của chính phủ trung ương. Cho đến nay PBOC chỉ nắm giữ 1.52 nghìn tỷ NDT TPCP, hầu hết có kỳ hạn ngắn hơn.
Chen Long, đồng sáng lập công ty tư vấn Plenum có trụ sở tại Bắc Kinh, cho biết cách tiếp cận của PBOC có một số điểm tương đồng với biện pháp kiểm soát đường cong lợi suất được BoJ áp dụng trong thập kỷ qua. Nhưng trong khi BoJ đang cố gắng thiết lập mức trần cho lợi suất thì PBOC lại đang cố gắng tạo ra một mức sàn.
Tuy nhiên, cho đến nay, các chi tiết quan trọng của bất kỳ hoạt động nào, bao gồm thời gian, quy mô, chi phí và tần suất giao dịch trái phiếu của PBOC vẫn chưa được tiết lộ.
Richard Xu, giám đốc phân tích tài chính Trung Quốc của Morgan Stanley, cho biết: “Thật khó để nói cần bao nhiêu hỏa lực cho PBOC xem xét thị trường từng bước một. Thị trường chuyển động theo kỳ vọng - đôi khi một cảnh báo bằng lời nói đơn giản có thể thay đổi hướng đi, nhưng trong những tình huống khác, thị trường cần phải có những hành động cứng rắn hơn.”
Gary Ng, nhà kinh tế cấp cao tại Natixis, cho biết PBOC “khó có thể dốc toàn lực. Đó giống một tín hiệu chính sách hơn trừ khi có sự can thiệp lớn, vì mục tiêu là làm dịu đi sự biến động thay vì [thay đổi] xu hướng thị trường.”
Ông Ng ước tính rằng PBOC có thể sẽ cần mua ít nhất 5% TPCP đang lưu hành – ít mạnh mẽ hơn so với các biện pháp can thiệp của BoJ – để tạo ra sự khác biệt đáng kể. Thị trường TPCP Trung Quốc đang có quy mô 30 nghìn tỷ NDT.
Ông Chen từ Plenum cũng chỉ ra rằng yếu tố chính trong việc kiểm soát lợi suất của Nhật Bản là lời hứa của BoJ về việc mua số lượng trái phiếu không giới hạn.
“Nếu PBOC nghiêm túc trong việc thiết lập mức sàn [cho lợi suất], họ cũng phải hứa bán số lượng TPCP không giới hạn ở mức đó. Vẫn chưa rõ liệu PBOC có sẵn sàng đi xa đến vậy hay không và chiến lược rút lui của ngân hàng này là gì.”
Các chuyên gia cảnh báo rằng việc tăng lợi suất sẽ gặp khó khăn trong môi trường giảm phát hiện nay ở Trung Quốc. Tăng trưởng trong khoản cho vay mới đã chậm lại hơn dự kiến trong năm nay. Dữ liệu chính thức về “tổng tài chính xã hội”, thước đo tăng trưởng tín dụng, cho thấy sự sụt giảm hiếm hoi trong tháng 4, mức giảm đầu tiên kể từ năm 2017, trong khi dữ liệu mới công bố vào tháng 6 chỉ ra mức phục hồi yếu hơn dự kiến vào tháng 5.
Một nhà nghiên cứu ngành tài chính tại một tổ chức nghiên cứu nhà nước cho biết, điều phức tạp hơn nữa là cuộc chiến giằng co giữa PBOC và Bộ tài chính, theo đó lợi suất thấp hơn đồng nghĩa với việc PBOC có thể phát hành trái phiếu với chi phí thấp hơn.
Nhà nghiên cứu cho biết nếu bộ tài chính đẩy nhanh phát hành trái phiếu trong nửa đầu năm 2024 để giảm bớt áp lực từ nhu cầu thì PBOC đã không cần phải cảnh báo nhiều như vậy.
Evans-Pritchard của Capital Economics cho biết trong lưu ý của mình rằng ngay cả khi PBOC thành công trong việc tác động đến lợi suất dài hạn, ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế sẽ không đáng kể do lãi suất dài hạn có tác động hạn chế đến khoản vay của doanh nghiệp và hộ gia đình.
Ông nói: “Hiện tại, PBOC vẫn giữ thái độ dovish trong các tuyên bố chính sách của mình. Điều gì xảy ra với lãi suất và lợi suất ở phần cuối của đường cong sẽ vẫn là điều quan trọng hơn đối với triển vọng kinh tế.”
Financial Times