Xu hướng lạm phát tại Nhật Bản buộc BoJ dè chừng
Nguyễn Mai Vinh
Junior Analyst
Lạm phát tiêu dùng lõi của Nhật Bản chậm lại trong tháng 7, khớp với quan điểm của ngân hàng trung ương rằng áp lực tăng giá đang giảm bớt. Tuy nhiên, các cơ quan tiền tệ vẫn cần cảnh giác với rủi ro tăng giá.
Giá tiêu dùng không bao gồm thực phẩm tươi sống tăng 3.1% so với năm trước, giảm từ mức 3.3% của tháng trước, trích báo cáo của Bộ Nội vụ. Con số đưa ra khớp với kỳ vọng của các nhà phân tích.
Kết quả toàn quốc khớp với dữ liệu của Tokyo, trước đó đã cho thấy sự suy giảm nhẹ khi giá năng lượng hạ nhiệt.
Tuy nhiên, giá không bao gồm năng lượng và thực phẩm tươi sống đã tăng 4.3% so với năm trước, tăng nhanh hơn so với tốc độ của tháng 6 và khớp với mức kỷ lục được thiết lập vào tháng 5, mức nhanh nhất kể từ năm 1981. Điều đó nhấn mạnh một xu hướng lạm phát rõ ràng hơn.
Nobuyasu Atago, nhà kinh tế trưởng tại Ichiyoshi Securities và là cựu quan chức BOJ, cho biết: “Lạm phát lõi chắc chắn đã hạ nhiệt, nhưng nếu quan sát kĩ hơn, bạn sẽ thấy lạm phát vẫn còn khó khăn như thế nào”. “Giá lương thực cao hơn tôi dự đoán và đã tác động đến cảm nhận của người tiêu dùng. Dữ liệu một lần nữa xác nhận rằng lạm phát khó khăn hơn so với những gì BOJ và thị trường nghĩ”.
Trong số các yếu tố góp phần làm lạm phát nóng hơn là giá thực phẩm chế biến tăng 9.2%. Tốc độ tăng không thay đổi so với tháng 6 và là tốc độ nhanh nhất trong khoảng 5 thập kỷ. Theo báo cáo từ Teikoku Databank, hơn 7,300 mặt hàng thực phẩm dự kiến sẽ tăng giá từ tháng 8 trở đi.
Mức tăng giá đối với hàng tiêu dùng lâu bền của hộ gia đình giảm xuống còn 6%, trong khi chi phí ăn ở tăng lên 15% sau khi trợ cấp du lịch bị cắt giảm ngay khi nhu cầu giải trí tăng cao trong mùa hè đầu tiên sau dịch Covid.
Một hạng mục được theo dõi sát sao khác trong báo cáo cho thấy giá dịch vụ tăng từ 1.6% lên 2%, dấu hiệu cho thấy lạm phát đang lan rộng hơn trong nền kinh tế. Đó là mức tăng lớn nhất kể từ năm 1993, không kể năm sau đợt tăng thuế doanh thu năm 1997.
Trong báo cáo triển vọng mới nhất, BoJ đã nâng dự báo lạm phát cho năm tài chính này lên 2.5%, sau khi nhận thấy lạm phát khó khăn hơn dự kiến trong những tháng gần đây. Tuy nhiên, các quan chức tiếp tục kỳ vọng lạm phát chậm lại dưới 2% trong những năm tới, nhấn mạnh quan điểm rằng áp lực tăng giá sẽ tiếp tục yếu đi trong những tháng tới.
Kết quả ngày thứ Sáu có thể làm dịu đi suy đoán của thị trường về việc BOJ có thể xem xét thay đổi lập trường tiền tệ nới lỏng vào cuối năm nay. Kỳ vọng của thị trường càng được thúc đẩy sau khi Thống đốc Kazuo Ueda sửa đổi sự kiểm soát của ngân hàng đối với lợi suất trái phiếu vào tháng trước. Ueda nhấn mạnh sau cuộc họp rằng việc điều chỉnh chính sách không phải là một bước tiến tới bình thường hóa, mà là một động thái nhằm giúp cho các biện pháp kích thích được bền vững hơn.
Có nhiều điều chưa chắc chắn xung quanh triển vọng giá của Nhật Bản, bao gồm cả tình trạng các biện pháp của chính phủ nhằm giảm bớt tác động của chi phí cao hơn lên các hộ gia đình và doanh nghiệp. Nhiều hạng mục, bao gồm trợ cấp cho các tiện ích, sẽ hết hạn vào cuối tháng 9.
Bộ cho biết các khoản trợ cấp cho điện và khí đốt đã giúp giảm tỷ lệ lạm phát chung xuống 0.99%.
Theo nhà kinh tế Yoshiki Shinke của Viện Dai-ichi Life, nếu chính phủ chấm dứt trợ cấp cho xăng và dầu hỏa, CPI lõi sẽ tăng thêm 0.5%.
Chính phủ sẽ báo cáo quyết định có nên gia hạn trợ cấp hay không vào cuối tháng. Động thái này có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ ủng hộ của Thủ tướng Fumio Kishida, vốn đang giảm dần trong các cuộc thăm dò gần đây.
Giá năng lượng đã giảm đáng kể so với một năm trước. Dầu Brent có giá trung bình khoảng 80 USD/thùng trong tháng 7, giảm so với khoảng 105 USD/thùng vào cùng kỳ năm ngoái, trong khi giá khí đốt tự nhiên giảm khoảng 34% kể từ đầu năm.
Chỉ số lạm phát chính vẫn cao hơn mục tiêu 2% của BOJ trong hơn một năm đã gây tâm lý lo ngại cho người tiêu dùng, vì tăng trưởng tiền lương mạnh mẽ không thể bù đắp lại căng thẳng lạm phát dai dẳng. Ngay cả sau khi đạt được mức tăng lương đáng chú ý trong các cuộc đàm phán tiền lương hàng năm của năm nay, tiền lương thực tế vẫn tiếp tục bị đình trệ ở một số khu vực.
Tác động của việc bảng lương không theo kịp lạm phát đã làm suy yếu sức mua của người tiêu dùng. Trong khi GDP trong quý trước cho thấy nhu cầu mạnh mẽ từ bên ngoài thúc đẩy tốc độ tăng trưởng hàng năm lên 6%, số liệu cũng cho thấy sự ảm đạm trong chi tiêu kinh doanh và hộ gia đình.
Tỷ lệ lạm phát chung của Nhật Bản cao hơn một chút so với Mỹ, nơi Fed tiếp tục cân nhắc thắt chặt hơn nữa do lo ngại về việc tăng giá. Bên cạnh đó còn Trung Quốc, nơi giá tiêu dùng giảm trong tháng 7, làm dấy lên lo ngại giảm phát.
Bloomberg