Fed tăng lãi suất sẽ làm gia tăng rủi ro thị trường đối với các ngân hàng trung ương châu Á
Nguyễn Vũ Phương Nam
Junior Analyst
Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ dự kiến tăng lãi suất 75 điểm cơ bản trong tuần này sẽ tạo áp lực lên nhóm các nền kinh tế mới nổi châu Á để tăng tốc thắt chặt tiền tệ - nếu không họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ dòng vốn ngoại tháo chạy và đồng nội tệ suy yếu.
Một báo cáo phân tích lãi suất ở Châu Á Thái Bình Dương so với mức trung bình 5 năm mới đây cho thấy mức độ nhạy cảm cao trong khu vực châu Á, cũng như việc lãi suất được điều chỉnh theo lạm phát và chênh lệch lợi suất với Kho bạc Mỹ.
Mức độ ảnh hưởng không giống nhau, trong đó nguy hiểm nhất là đối với các thị trường như Thái Lan, nơi ngân hàng trung ương đã giữ lãi suất ở mức thấp kỷ lục. Hàn Quốc và New Zealand, những quốc gia đã sớm tăng lãi suất từ trước, có vị thế tốt hơn nhưng cũng không tránh khỏi rắc rối.
Các thông báo thắt chặt gần đây từ các cuộc họp đột xuất của Cơ quan Tiền tệ Singapore và "Bangko Sentral ng Pilipinas: (Ngân hàng Trung ương Philippines) đã chỉ ra rằng các ngân hàng trung ương châu Á sẽ phải điều chỉnh lãi suất nhanh chóng do lạm phát tăng mạnh hơn dự kiến.
Dưới đây là ba biểu đồ cho thấy áp lực mà các nhà hoạch định chính sách của khu vực đang phải đối mặt trong việc bình thường hóa lãi suất của họ.
1. Chênh lệch lãi suất giữa Mỹ và các nhóm nước mới nổi sẽ nhỏ hơn
Việc Fed tăng 75 điểm cơ bản sẽ thu hẹp khoảng cách chênh lệch lãi suất với Indonesia xuống chỉ còn 1 điểm phần trăm, tức là độ lệch chuẩn lớn hơn 5 lần so với mức trung bình 5 năm là 3.3 điểm phần trăm. Chỉ số tương tự đối với Thái Lan là 4 độ lệch chuẩn. Chênh lệch lãi suất thu hẹp với Mỹ đã thúc đẩy dòng vốn bán tháo trái phiếu Thái Lan, Indonesia và Malaysia kể từ đầu tháng Sáu.
Các ngân hàng trung ương như ở Úc và Hàn Quốc, vốn đã tăng lãi suất sớm hơn các nước kể trên, nâng mức chênh lệch lãi suất gần với mức trung bình 5 năm của họ. New Zealand là quốc gia duy nhất trong khu vực mà có chênh lệch lợi suất với Mỹ vẫn sẽ lớn hơn mức trung bình 5 năm nếu Fed tăng 75 điểm cơ bản.
2. Ảnh hưởng của lạm phát
Trong khi một số ngân hàng trung ương châu Á đã cố gắng tránh tăng giá cả, lãi suất được điều chỉnh theo số liệu lạm phát hàng tháng gần đây nhất vẫn ở dưới mức trung bình 5 năm và ở mức âm đối với nhiều thị trường trong khu vực.
Lạm phát đã tăng cao nhất trong 23 năm ở Hàn Quốc, 21 năm ở Úc và 14 năm ở Thái Lan. Và điều tồi tệ nhất có thể sẽ chưa kết thúc khi giá cả hàng hóa tăng cao và sự gián đoạn chuỗi cung ứng tiếp tục làm tăng chi phí nhập khẩu.
3. Trái phiếu suy giảm
Sức hấp dẫn của trái phiếu Đông Nam Á đang ở mức thấp nhất theo mức chênh lệch lợi suất của họ so với trái phiếu chính phủ Mỹ. Trái phiếu chính phủ Malaysia kỳ hạn 10 năm thấp hơn một độ lệch chuẩn so với mức trung bình 5 năm.
Chênh lệch lợi suất so với trái phiếu chính phủ Mỹ cũng thắt chặt hơn đối với trái phiếu Thái Lan, Ấn Độ và Indonesia. Do đó, các ngân hàng trung ương ở các quốc gia này có thể cần phải đẩy nhanh tốc độ thắt chặt chính sách để đẩy lợi suất lên nhằm hạn chế dòng tiền chảy ra và áp lực đối với tiền tệ của họ.
Các đợt tăng lãi suất trước đó của Hàn Quốc, New Zealand và Australia đã hỗ trợ lợi suất, dẫn đến lợi suất chênh lệch so với Mỹ hấp dẫn hơn.
Phân tích này không bao gồm các ngân hàng trung ương của Nhật Bản và Trung Quốc. Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) cam kết giữ lãi suất âm và chính sách kiểm soát đường cong lợi suất, trong khi Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) đang cung cấp thanh khoản dồi dào để nền kinh tế kiên định với chính sách 'Zero Covid'.
Bloomberg