Khủng hoảng nợ công tại Mỹ: Có lẽ nhà đầu tư không cần quá lo ngại về vấn đề này

Khủng hoảng nợ công tại Mỹ: Có lẽ nhà đầu tư không cần quá lo ngại về vấn đề này

Đặng Thùy Linh

Đặng Thùy Linh

Junior Analyst

14:25 18/07/2024

Khi thế giới thoát khỏi đại dịch, nhiều người lo ngại rằng lãi suất cao hơn sẽ làm tê liệt khu vực tư nhân. Hoá ra những lo ngại này phần lớn là không đúng chỗ. Chính sách tiền tệ thắt chặt không khiến tình trạng bất ổn tài chính trầm trọng hơn. Rủi ro hệ thống đối với các thị trường tài chính ngân hàng và phi ngân hàng toàn cầu dường như đã được kiểm soát. Và các hộ gia đình đã vay ít hơn.

Thay vào đó, khu vực công đã gánh phần lớn gánh nặng tài chính hậu đại dịch. Nợ của chính phủ hiện đang gần đạt đỉnh kỷ lục. Nợ công vẫn ở mức cao và lãi suất đã tăng lên, điều này khiến việc trả nợ với chi phí cao gặp khó khăn.

Điều dễ hiểu là triển vọng tài chính gây ra lo ngại, nhưng nó không nên đáng báo động. Ở hầu hết các nước phát triển, nợ công vẫn còn quá thấp để gây ra bất kỳ mối đe dọa trực tiếp nào đối với uy tín của hệ thống tài chính. Triển vọng bấp bênh hơn ở các nước có nợ công cao hơn, chẳng hạn như Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Anh và Nhật Bản. Những nước này có thể sẽ có năng lực tài chính hạn chế để giải quyết các cuộc suy thoái trong tương lai. Nhưng động lực tài chính của họ vẫn có vẻ bền vững trên diện rộng. Mặc dù mức nợ có thể không giảm trong những năm tới, nhưng chúng không có khả năng tăng mạnh.

Ngoại lệ là Hoa Kỳ, quốc gia có nợ công đang trong xu hướng tăng mạnh. Thâm hụt ngân sách của nước này lớn hơn hầu hết các quốc gia khác. Tệ hơn nữa, không giống như các thị trường phát triển khác, có vẻ như kỳ vọng thắt chặt chính sách tiền tệ không quá lớn. Nhưng nếu đào sâu hơn, bức tranh kinh tế Mỹ có vẻ tích cực hơn. Trong khi tỷ lệ nợ trên GDP đã tăng vọt trong suốt thập kỷ qua, tăng trưởng tài sản ròng của nền kinh tế đã vượt xa mức nợ công. Hoa Kỳ cũng phải đối mặt với ít ràng buộc về tài chính hơn các quốc gia khác. Là nhà cung cấp dự trữ ngoại hối toàn cầu và được coi là tài sản an toàn, Hoa Kỳ có nhu cầu cao hơn đối với các khoản nợ của mình so với các quốc gia khác.

Hơn nữa, gánh nặng thuế của Hoa Kỳ thấp hơn so với các nước khác và thấp hơn trong lịch sử của chính quốc gia này. Điều này tạo ra sự linh hoạt hơn trong việc điều chỉnh thuế nếu cần thiết, tăng cường niềm tin của nhà đầu tư về khả năng quản lý tài chính của Mỹ, trái ngược với nhiều quốc gia châu Âu - nơi gánh nặng thuế cao hơn nhiều.

Điều đó có ý nghĩa gì đối với nợ công của Hoa Kỳ trong những năm tới? Triển vọng cơ bản có lẽ là thâm hụt vẫn ở mức cao, nợ công tiếp tục tăng và nhu cầu về TPCP Hoa Kỳ vẫn mạnh mẽ, một phần là do vị thế của đồng USD là đồng tiền dự trữ toàn cầu.

Tuy nhiên, nợ công không thể tăng vô hạn và tại một số thời điểm, chính sách hoặc giá cả có thể sẽ cần phải điều chỉnh nhằm hỗ trợ tình hình tài chính của Hoa Kỳ bền vững hơn. Triển vọng có lợi nhất sẽ là nợ công của Hoa Kỳ được cải thiện nhờ tăng trưởng điều chỉnh theo lạm phát cao hơn. Các nhà hoạch định chính sách cũng có thể sử dùng lạm phát cao (và giữ lãi suất ở mức thấp) để làm giảm giá trị thực của nợ. Trường hợp xấu nhất sẽ là thị trường mất niềm tin về uy tín của hệ thống tài chính, khiến nhu cầu về TPCP Hoa Kỳ giảm mạnh và phần bù kỳ hạn - lợi nhuận bổ sung mà các nhà đầu tư tìm kiếm khi nắm giữ trái phiếu dài hạn - tăng vọt.

Tất cả kịch bản này đều không có khả năng xảy ra. Mặc dù tăng trưởng kinh tế có thể phục hồi theo thời gian, nhưng sẽ cần tăng gấp đôi so với hiện tại để có thể giảm nợ công. Uy tín của Cục Dự trữ Liên bang có vẻ mạnh mẽ, bằng chứng là lạm phát kỳ vọng dài hạn được duy trì quanh mục tiêu của ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó, vai trò của đồng USD (đồng tiền dự trữ toàn cầu), động lực chung của nền kinh tế Hoa Kỳ và các ràng buộc tài chính không đáng kể sẽ khiến một cuộc khủng hoảng nợ công khó xảy ra.

Thay vào đó, giải pháp dài hạn khả thi nhất là một số hình thức hợp nhất nợ thông qua cải cách chi tiêu hoặc tăng thuế cao hơn. Điều đó có vẻ không khả thi hiện nay, nhưng có thể thay đổi theo thời gian nếu lạm phát và lãi suất vẫn duy trì ở mức cao. Lịch sử cho thấy điều tương tự đã từng diễn ra sau các giai đoạn lãi suất tăng cao (sau Thế chiến thứ II, thời Reagan và Clinton).

Tuy nhiên, nhìn chung, nhà đầu tư nên chuẩn bị cho nhiều biến động hơn ở phía trước. Thị trường tài chính có khả năng trở nên nhạy cảm hơn với các cú sốc tài chính và chính trị. Khả năng hạn chế về tài chính có thể sẽ làm giảm các chính sách kích thích kinh tế trong các đợt suy thoái trong tương lai. Điều này cũng có thể dẫn đến biến động vĩ mô lớn hơn. Do đó, phần bù kỳ hạn có thể tăng dần. Biến động tài chính khác nhau giữa các quốc gia cũng tạo ra nhiều cơ hội. Nhà đầu tư nên cân nhắc đa dạng hóa danh mục trái phiếu ra, TPCP Mỹ.

Financial Times

Broker listing

Cùng chuyên mục

Tăng thâm hụt ngân sách: Cả ông Trump và bà Harris đều chung "nước đi" này!
Đặng Thùy Linh

Đặng Thùy Linh

Junior Analyst

Tăng thâm hụt ngân sách: Cả ông Trump và bà Harris đều chung "nước đi" này!

Kamala Harris đã giành chiến thắng trong cuộc tranh luận tổng thống với Trump. Harris nổi bật với tầm nhìn hướng tới tương lai, nhấn mạnh các chủ đề như quyền phá thai, pháp quyền và chính sách đối ngoại liên quan đến chiến tranh ở Ukraine và Gaza. Ngược lại, Trump tập trung vào chỉ trích chính quyền hiện tại mà không đưa ra kế hoạch hay sáng kiến cụ thể.
Cắt giảm 50 bps: Dấu hiệu suy thoái hay bước ngoặt mới của Fed?
Quỳnh Chi

Quỳnh Chi

Junior Editor

Cắt giảm 50 bps: Dấu hiệu suy thoái hay bước ngoặt mới của Fed?

Sau cuộc họp FOMC, Fed đã bắt đầu "bước ngoặt chính sách" bằng việc cắt giảm lãi suất 50 bps, dự kiến tiếp tục nới lỏng trong năm 2024 - 2026, song thị trường cần thận trọng theo dõi các chỉ báo quan trọng như XRT, DBC, DBA và diễn biến của USD để đánh giá triển vọng kinh tế vĩ mô và xu hướng thị trường tài chính.
Forex Forecast - Diễn đàn dự báo tiền tệ