Các chính trị gia không còn tác động nhiều nền kinh tế như trước đây
Nguyễn Thu Thủy
Junior Analyst
Quyền lực của các chính trị gia trong việc thay đổi các điều kiện kinh tế dường như đang giảm dần, cũng như tầm quan trọng của các yếu tố đó trong chính trị.
Thành công trong kinh doanh, cũng như trong cuộc sống, thường có thể được xác định bằng việc hiểu được thời điểm nên từ chối những chiến thắng trước đó. Tôi đang nghĩ về thứ gọi là "lý thuyết chu kỳ kinh doanh chính trị".
Theo lý thuyết chu kỳ kinh doanh chính trị , các cơ quan được bầu sẽ sử dụng các chính sách tiền tệ và tài chính để tác động đến các cuộc bầu cử. Mặc dù họ hiếm khi có quyền kiểm soát nguồn cung tiền nhưng họ có thể gây áp lực lên các quan chức ngân hàng trung ương để làm điều đó.
Giả thuyết đã đạt được một số thành công đáng kể. Ví dụ, Tổng thống Richard Nixon đã gây áp lực lên Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Arthur Burns vào năm 1972, dẫn đến việc ông tái đắc cử - và cuối cùng là lạm phát tăng cao. Các nhà kinh tế học đã phát hiện ra những dữ liệu hỗ trợ cho lý thuyết chu kỳ kinh doanh chính trị, và một số người đã tạo dựng được sự nghiệp từ việc nghiên cứu nó.
Giả thuyết bây giờ cần điều chỉnh đáng kể. Tất nhiên, các nhà lãnh đạo chính trị vẫn muốn thao túng các biến số kinh tế theo hướng có lợi cho họ. Nhưng các nền kinh tế, cũng như cử tri, không đi theo hướng đó - và do đó các cơ chế tiêu chuẩn cho lý thuyết chu kỳ kinh tế chính trị bị phá vỡ.
Hãy xem xét Đạo luật Giảm lạm phát của Tổng thống Joe Biden, được ký vào năm 2022. Hai trong số các mục tiêu chính của đạo luật này là giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu và xây dựng lại cơ sở sản xuất của Hoa Kỳ. Dù bạn có đồng ý hay không thì ít nhất đó cũng là vì lợi ích cộng đồng. Đồng thời, luật này khiến chính phủ phải chi rất nhiều tiền trong năm trước cuộc bầu cử.
Theo lý thuyết chu kỳ kinh doanh chính trị, điều này đáng lẽ phải giúp Biden giành được sự ủng hộ của cử tri. Tuy nhiên, mọi chuyện không diễn ra như vậy. Xếp hạng tín nhiệm của Biden tiếp tục ở mức thấp nhất mọi thời đại - liệu điều này chính xác hay không lại là một chuyện khác - trong khi rất nhiều tiền được chi cho sản xuất ở các khu vực của Đảng Cộng hòa, nơi Biden khó có thể giành chiến thắng. Về mặt chính trị, việc áp dụng chính sách tài khóa quá mức dường như không mang lại lợi ích gì.
Lý thuyết về chu kỳ kinh doanh chính trị cũng chỉ ra rằng Fed sẽ do dự trong việc theo đuổi mục tiêu giảm phát trong năm ngoái vì sợ gây ra suy thoái kinh tế và làm ảnh hưởng đến triển vọng tái tranh cử của những người đương nhiệm. Trong bất kỳ trường hợp nào, Fed vẫn tiếp tục tiến hành, bất chấp thực tế là các nhân viên của họ đã dự đoán (nhầm lẫn) về một cuộc suy thoái.
Về mặt kinh tế cũng vậy, chính sách tài khóa ngày nay kém hiệu quả hơn so với trước đây. Nhiều quốc gia có mức nợ và thâm hụt cao hơn, điều này làm tăng nguy cơ lấn át đầu tư tư nhân trong ngắn hạn. Và thị trường lao động ở nhiều nước đang bị thắt chặt, điều này hạn chế khả năng kích thích việc làm của chính sách tài khóa.
Kế hoạch kinh tế cực đoan nhất thế giới hiện thuộc về Tổng thống Javier Milei của Argentina. Milei đã vận động công khai trên cơ sở giảm bớt các đặc quyền của chính phủ và hạn chế những cam kết mà chính phủ đưa ra. Hiện ông đang cố gắng giữ những lời hứa đó, ngay cả khi cử tri có thể thất vọng với kết quả. Tuy nhiên, ông đã có quan điểm phản đối cách tiếp cận "bữa trưa miễn phí".
Tại Liên minh Châu Âu, nhiệm vụ ổn định giá cả và hạn chế nợ của Ngân hàng Trung ương Châu Âu đã hạn chế khả năng của các chính trị gia trong nước trong việc tham gia vào việc điều khiển chu kỳ kinh doanh chính trị. Những hạn chế này không xảy ra thường xuyên, một phần là do những cân nhắc trong bầu cử. Tuy nhiên, một hệ thống quy tắc đã được thiết lập và các quốc gia như Ý đã phá vỡ chu kỳ lạm phát của mình. Đức đang tranh luận về các điều khoản “phanh nợ” bảo thủ về mặt tài chính, nhưng cho đến nay nước này vẫn đứng về phía các điều khoản đó.
Ở Ấn Độ, một sáng kiến đặc trưng của Thủ tướng Narendra Modi - một trong những nhà lãnh đạo được yêu thích nhất thế giới - là “hủy bỏ tiền tệ”, sáng kiến này hầu như không thành công nhưng lại gây ra khó khăn đáng kể cho cử tri. Một trong những mục tiêu của nó là tăng doanh thu thuế bằng cách loại bỏ các giao dịch khỏi thị trường chợ đen và thị trường phi chính thức. Modi đã tăng gấp đôi chính sách tài khóa, các bang của Ấn Độ cũng vậy, nhưng phần lớn chi tiêu đó là dành cho cơ sở hạ tầng vô cùng cần thiết và phù hợp với mô hình lợi ích công của chính phủ cũng như chu kỳ kinh doanh chính trị.
Điều đáng ngạc nhiên là lý thuyết chu kỳ kinh doanh chính trị dường như vẫn được ưa chuộng trong các chế độ chuyên chế. Trong hơn một thập kỷ rưỡi, Trung Quốc đã sử dụng biện pháp kích thích tài chính để che giấu các vấn đề kinh tế cơ bản của mình. (Dự luật cuối cùng cũng đến hạn thanh toán vì các chỉ số kinh tế của Trung Quốc đang đáng lo ngại – tôi không coi trọng số liệu GDP). Đảng Cộng sản vẫn tương đối được lòng dân, ngay cả khi nền kinh tế đang bị dư thừa công suất và bong bóng bất động sản.
Logic cơ bản của lý thuyết chu kỳ kinh tế chính trị có thể sẽ quay trở lại vào một lúc nào đó, vì vậy không nên loại bỏ nó hoàn toàn. Tuy nhiên, trong lúc này, thế giới đòi hỏi những phương pháp tư duy mới và cải tiến về cách chính trị ảnh hưởng đến các chính sách kinh tế vĩ mô.
Bloomberg