Đừng mong đợi các lệnh trừng phạt sẽ đem đến chiến thắng trong cuộc chiến tại Ukraine
Nguyễn Long Hà
Junior Analyst
Trong những thập kỷ gần đây, các lệnh trừng phạt tài chính của phương Tây ngày càng được sử dụng phổ biến để thay thế cho hành động quân sự. Nhưng hiện tại, Nga đang cho thấy điểm hạn chế của những chiến lược đó.
Các biện pháp trừng phạt của phương Tây đối với Nga đã không ngừng gia tăng kể từ khi nước này bắt đầu tiến hành cuộc chiến với Ukraine cách đây hai tháng. Dự trữ ngân hàng trung ương của Nga hầu hết bị đóng băng. Các nhà tài phiệt của đất nước này đang vội vã bảo vệ tài sản ở nước ngoài của họ. Vốn từ phương Tây không thể vào Nga một cách bình thường nữa và các doanh nghiệp sản xuất linh kiện công nghệ cao đã ngừng xuất khẩu đến Nga. Hầu hết các ngân hàng của Nga hiện đã bị ngắt kết nối (hoặc sẽ sớm bị ngắt kết nối) khỏi mạng nhắn tin tài chính Swift. Hơn 400 công ty phương Tây đã rời khỏi nước Nga. Than của Nga đang bị cấm vận, và đang có những áp lực để mở rộng lệnh cấm đối với dầu và khí đốt.
Tại Warsaw vào tháng trước, Tổng thống Joe Biden đã tuyên bố rằng “các lệnh trừng phạt kinh tế này là một loại vũ khí mới với sức mạnh gây ra thiệt hại tương đương các biện pháp quân sự”. Ban đầu, nhiều người dự đoán rằng sức ép kinh tế tàn khốc như vậy sẽ buộc Điện Kremlin phải dừng cuộc xâm lược của mình. Một số người thậm chí còn hy vọng rằng các lệnh trừng phạt sẽ châm ngòi cho tình trạng bất ổn nội bộ và làm suy yếu chế độ của ông Putin. Nhưng bất chấp triển vọng tăng trưởng của Nga hiện đang cực kỳ tồi tệ, kết quả cuối cùng của các lệnh trừng phạt dường như khó dự đoán như chính kết quả của cuộc chiến.
Trong vài thập kỷ gần đây, giới tinh hoa phương Tây đã coi các biện pháp trừng phạt như một phương pháp thay thế dễ dàng cho xung đột quân sự. Sau Chiến tranh Lạnh, nhiều người kỳ vọng rằng các quốc gia sẽ trở nên hòa bình hơn khi họ tham gia vào trật tự tư bản toàn cầu. Các biện pháp trừng phạt kinh tế trở thành biện pháp thuận tiện để ngăn chặn các trạng thái nổi loạn với chi phí thấp và rủi ro có thể chấp nhận được. Kết quả là, việc sử dụng các biện pháp trừng phạt đã tăng lên giữa những năm 1990 và những năm 2010. Đôi khi Hoa Kỳ vẫn dùng đến quân đội, nhưng Washington đã trừng phạt hầu hết các chế độ chuyên quyền, từ Triều Tiên đến Sudan và từ Belarus đến Cuba, bằng cách đặt họ vào diện cấm vận kinh tế và quên họ đi.
Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine đã bộc lộ những điểm yếu trong cách tiếp cận này. Liên bang Nga không phải là một tiểu quốc vô danh mà là một nền kinh tế G-20. Trong hai thập kỷ kể từ khi Liên Xô sụp đổ, nước Nga đã theo đuổi việc hội nhập vào các thị trường thế giới. Phương Tây đã áp đặt các biện pháp trừng phạt sau khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014, nhưng những điều này chẳng làm giảm được sức mạnh quân sự của Nga. Mối đe dọa trừng phạt trong những tháng trước chiến tranh cũng không ngăn cản được cuộc xâm lược của ông Putin vào ngày 24 tháng 2.
Các nhà lãnh đạo châu Âu đã nhận ra một cách muộn màng rằng chỉ riêng áp lực kinh tế là không đủ khả năng kết thúc một cuộc chiến với quy mô này.
Các biện pháp trừng phạt trong lịch sử đã tỏ ra hiệu quả hơn đối với các quôc gia nhỏ nếu so với các nước lớn. Trong những năm 1920, mối đe dọa của các lệnh trừng phạt đã ngăn chặn một cách nhanh chóng và hiệu quả các quốc gia như Nam Tư và Hy Lạp khỏi những hành động không mong muốn. Nhưng khi chống lại các cường quốc lớn hơn, chẳng hạn như phát xít Ý hay đế quốc Nhật Bản, áp lực kinh tế có xu hướng trở thành vũ khí tiêu hao hơn là răn đe. Một nền kinh tế lớn hầu như sẽ luôn mất nhiều tháng, nếu không muốn nói là lâu hơn, để thực sự cảm nhận được sự thiếu hụt mà các lệnh trừng phạt gây ra. Nếu mục tiêu là nhanh chóng làm tê liệt sức mạnh chiến tranh của Nga, một cường quốc hạt nhân giàu tài nguyên, thù địch với một quân đội lớn, thì các biện pháp trừng phạt chỉ có tác dụng hạn chế.
Các nhà lãnh đạo châu Âu đã nhận ra muộn màng rằng chỉ riêng áp lực kinh tế là không có khả năng kết thúc một cuộc chiến trên quy mô như thế này. Tuần trước, ngoại trưởng Luxembourg Jean Asselborn lưu ý rằng các nhà lãnh đạo châu Âu phải quyết định giữa “các biện pháp trừng phạt hoặc sử dụng vũ khí”. Ông nói thêm, "Kết luận của tôi là vũ khí" - và nếu bạn nói với tôi điều này hai tháng trước, chắc chắn tôi sẽ đáp rằng: "Bạn có bị điên không?" Trên thực tế, các biện pháp trừng phạt chỉ đơn thuần bổ sung cho sự kháng cự quyết liệt của quân đội Ukraine, được trang bị bởi số lượng khí tài ngày càng tăng từ NATO.
Mỹ và châu Âu đã thể hiện sự thống nhất đáng kể trong việc áp dụng chế độ trừng phạt hiện tại. Những nỗ lực của Tổng thống Ronald Reagan nhằm áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với Liên Xô, Libya và Nicaragua trong những năm 1980 gây tranh cãi nhiều hơn, vấp phải sự phản đối của các thủ tướng Đức và Thủ tướng Anh Margaret Thatcher. Các nhà lãnh đạo châu Âu đã thuyết phục thành công chính quyền Reagan rút lại các lệnh trừng phạt ngăn các công ty châu Âu xây dựng đường ống dẫn khí đốt từ Siberia. Ngoại trưởng Antony Blinken, người từng viết một cuốn sách về cuộc khủng hoảng bị lãng quên của liên minh Đại Tây Dương, cũng đã liên hệ sự tranh chấp liên quan đến đường ống dẫn khi xưa với câu chuyện Nord Stream 2 gần đây.
Việc duy trì các lệnh trừng phạt đối với một quốc gia có quy mô như Nga sẽ đòi hỏi Mỹ phải quản lý không chỉ các đồng minh NATO mà còn cả các đồng minh không phải phương Tây. Tổng cộng, 37 nền kinh tế tiên tiến đã phối hợp thực hiện chiến dịch cô lập Nga. Nhóm này kiểm soát khoảng 55% GDP thế giới. Nhưng phần lớn cộng đồng quốc tế vẫn nằm ngoài liên minh đó.
Nhiều quốc gia Mỹ Latinh, châu Phi và châu Á không thích tham gia lệnh trừng phạt một phần vì họ phụ thuộc vào hàng hóa và nguyên liệu thô của Nga. Hầu hết các nền kinh tế đang phát triển không đủ khả năng để ngừng mua lúa mì, ngô, dầu, đồng, niken, nhôm và công nghệ hạt nhân của Nga mà không có nguồn cung thay thế. Nếu phương Tây thuyết phục hoặc ép buộc hơn một nửa dân số thế giới ở miền Nam địa cầu ngừng giao thương với Nga, thì phương Tây sẽ phải giúp họ thoát khỏi cú sốc khi từ bỏ các mặt hàng của Nga, nếu không chúng ta sẽ phải đối mặt với một tương lai lạm phát toàn cầu, khủng hoảng nợ và suy thoái khu vực.
Khi đến thời điểm đàm phán hòa bình, các lệnh trừng phạt sẽ cung cấp một công cụ hữu ích. Một cuộc dàn xếp bằng đàm phán lúc này có vẻ không khả thi, nhưng lịch sử cho thấy mục tiêu chiến tranh của những kẻ hiếu chiến có thể và sẽ thay đổi theo thời gian, đặc biệt là trong các cuộc xung đột kéo dài. Trong trường hợp có các cuộc đàm phán thực sự, việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt có thể gắn liền với việc Nga rút khỏi lãnh thổ Ukraine.
Chúng tôi không biết chiến thắng trong cuộc chiến kinh tế này sẽ như thế nào.
Các nhà đàm phán phương Tây có thể sử dụng các tài sản bị đóng băng một cách tương tự. Cho đến nay, các chính phủ Hoa Kỳ, Anh, EU và Thụy Sĩ đã đóng băng khoảng 400 tỷ USD tài sản của ngân hàng trung ương Nga và ít nhất 240 tỷ USD tài sản tư nhân. Qua đó, phương Tây đã thu được một khoản lợi đáng kể, nhưng họ cũng bị thiệt hại nghiêm trọng về tài chính vì các lệnh trừng phạt. Vào cuối năm 2020, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nga ở mức 446 tỷ đô la. Phần lớn số tiền đó đã bị mất khi các công ty phương Tây bỏ trốn khỏi đất nước. Các danh mục đầu tư trị giá 120 tỷ đô la khác đã trở nên không thể thu hồi được hoặc có nguy cơ vỡ nợ. Ông Putin có thể quốc hữu hóa các tài sản kinh doanh còn lại của phương Tây, giống như những người Bolshevik quyết định vào năm 1918 bãi bỏ mọi nghĩa vụ nợ và quyền tài sản của các nhà đầu tư phương Tây.
Việc tịch thu tài sản vào những năm 2020, giống như những năm 1910, sẽ định hình mối quan hệ của phương Tây với Moscow trong nhiều năm tới. Nhưng nếu sự thay đổi chính trị trong tương lai ở Moscow cho phép họ thiết lập lại quan hệ với phương Tây, các cường quốc phương Tây sẽ không chỉ cần tái thiết Ukraine mà còn phải giúp xây dựng lại nền kinh tế Nga đang bị đổ vỡ bởi các lệnh trừng phạt. Các cuộc tái chiến diễn ra sau Cách mạng Nga và Hiệp ước Versailles là một lời nhắc nhở rằng công lý cho các nạn nhân của sự xâm lược phải được kết hợp với các điều khoản hào phóng để hàn gắn các mối quan hệ quốc tế và thúc đẩy sự ổn định kinh tế.
Các biện pháp trừng phạt kinh tế chống lại Nga đã mở ra một chiến trường mới: thị trường tiền tệ, công nghệ chiến lược, chuỗi cung ứng doanh nghiệp và tài sản ở nước ngoài. Tuy nhiên, sự khéo léo về mặt kỹ thuật của các biện pháp trừng phạt thế hệ mới không thể trả lời những câu hỏi quan trọng về chính trị và chiến lược. Chúng tôi không biết chiến thắng trong cuộc chiến kinh tế này sẽ như thế nào hoặc liệu nó có thể mang lại một giải pháp địa chính trị ổn định và lâu dài hay không. Liệu một cường quốc hạt nhân có nền kinh tế và thể chế bị hủy hoại bởi các lệnh trừng phạt có thể chuyển đổi sang chế độ dân chủ mà không cần viện trợ từ bên ngoài? Chỉ riêng các biện pháp trừng phạt sẽ không mang đến câu trả lời thỏa đáng. Vì vậy, phương Tây sẽ cần các biện pháp kinh tế tích cực và các hoạt động ngoại giao hướng về tương lai.
The Wall Street Journal