Giữa lạm phát và bất ổn, các ngân hàng trung ương đang miễn cưỡng chọn lấy một
Lê Hải Linh
Junior Analyst
Họ phải lựa chọn giữa bất ổn tài chính và lạm phát cao. Đáng ra mọi việc không nên khó khăn như thế…
Công việc của các ngân hàng trung ương là giữ cho các ngân hàng ổn định và lạm phát thấp. Hôm nay họ phải đối mặt với một trận chiến lớn trên cả hai mặt trận. Con quái vật lạm phát vẫn chưa được chế ngự nhưng hệ thống tài chính đã đến ngưỡng cửa của sự bấp bênh.
Lạm phát cao liên tục khiến Cục Dự trữ Liên bang tăng lãi suất thêm 1/4 điểm phần trăm vào ngày 22 tháng 3, chưa đầy một tuần sau khi Ngân hàng Trung ương Châu Âu cũng tăng lãi suất. Fed đã hành động vài ngày sau khi ba ngân hàng của Mỹ sụp đổ, và Credit Suisse, một ngân hàng lớn lâu đời của Thụy Sĩ với tài sản hơn 500 tỷ SFr (545 tỷ USD), đã phải gánh chịu hậu quả nặng nề và kết thúc bằng một đợt sáp nhập ngắn gọn với đối thủ của họ, UBS. Các chủ ngân hàng do Jamie Dimon, ông chủ của JPMorgan Chase, đứng đầu, đang cố gắng vực dậy First Republic, quân cờ domino tiếp theo.
Vấn đề là hai mục tiêu của các ngân hàng trung ương ngày càng mâu thuẫn nhau. Tất cả trừ các ngân hàng lớn nhất của Mỹ đang phải gánh chịu hậu quả của việc tăng lãi suất. Tiền rẻ hơn đã làm giảm giá trị danh mục đầu tư chứng khoán của họ và khiến người gửi tiền có xu hướng chạy trốn đến các ngân hàng lớn hoặc các quỹ thị trường tiền tệ. Cắt giảm lãi suất sẽ giúp các ngân hàng và cả hệ thống tài chính. Nhưng một trong hai lựa chọn sẽ tiếp tục kích thích nền kinh tế và làm cho lạm phát trở nên tồi tệ hơn.
Các quy tắc mới được đưa ra sau cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009 nhằm ngăn chặn sự đổ vỡ của ngân hàng đe dọa nền kinh tế và hệ thống tài chính. Đổi lại, điều đó được cho là để chính sách tiền tệ tự do tập trung vào tăng trưởng và lạm phát. Nhưng kế hoạch đã không thành công, buộc các ngân hàng trung ương phải thực hiện một hành động cân bằng gay gắt.
Hãy xem xét đến Credit Suisse. Các cơ quan quản lý được cho là có thể “giải quyết” một ngân hàng phá sản một cách có trật tự trong vòng một ngày cuối tuần bằng cách thực hiện theo kế hoạch loại bỏ các cổ đông và ghi giảm trái phiếu chuyển đổi (hoặc chuyển đổi chúng thành cổ phiếu). Nhưng sự sụp đổ của Credit Suisse đã gieo rắc thêm sự bất an và bối rối. Thay vì giải thể ngân hàng, các quan chức Thụy Sĩ đã thúc ép UBS mua nó, cung cấp các khoản vay hào phóng và đảm bảo để thương vụ có hiệu quả và thậm chí thông qua luật để các điều khoản được chặt chẽ.
Mặc dù các cơ quan quản lý đã xóa sổ trái phiếu chuyển đổi của ngân hàng, các cổ đông vẫn nhận được 3,2 tỷ đô la, làm tăng sở thích dự kiến của trái chủ so với cổ đông. Một lần đọc bản in nhỏ của hợp đồng trái phiếu là việc đảo ngược này đã được cho phép. Mặc dù các cơ quan quản lý ở Anh và EU đã nhanh chóng khẳng định rằng họ sẽ tôn trọng trật tự thông thường của các chủ nợ, nhưng việc Thụy Sĩ rời bỏ chuẩn mực chắc chắn đã làm lung lay niềm tin của các nhà đầu tư, tạo ra nghi ngờ về những gì có thể xảy ra với sự sụp đổ ngân hàng tiếp theo.
Việc Mỹ ngẫu hứng giải cứu tất cả những người gửi tiền của Ngân hàng SVB và Ngân hàng Signature cũng có thể có tác động ăn mòn. Tiền gửi trên mức giới hạn 250,000 đô la cho mỗi khách hàng không được bảo hiểm chính thức bởi chính phủ liên bang. Nhưng không ai chắc chắn những người gửi tiền lớn hơn sẽ được giải cứu nếu một ngân hàng phá sản. Jerome Powell, Chủ tịch Fed, cho biết vào ngày 22 tháng 3 rằng những người gửi tiền “nên cho rằng” họ đã an toàn. Cùng ngày, Janet Yellen, Bộ trưởng Bộ tài chính Hoa Kỳ, cho biết việc mở rộng bảo hiểm cho tất cả những người gửi tiền không được xem xét. Trong khi đó, Fed đã cho vay 165 tỷ đô la thông qua các chương trình cho vay hào phóng mới của mình, giúp bảo vệ các ngân hàng khỏi rủi ro khi nắm giữ chứng khoán dài hạn.
Có vẻ như First Republic sẽ tồn tại mà không cần thêm sự can thiệp của chính phủ. Tuy nhiên, sự kết hợp giữa khó khăn của các ngân hàng và sự không chắc chắn về quy định có thể gây hại cho nền kinh tế.
Những hệ lụy cũng có thể đến từ các ngân hàng vừa và nhỏ của Mỹ. Những tổ chức có tài sản dưới 250 tỷ đô la và chiếm khoảng một nửa tổng tài sản ngân hàng và 80% khoản vay cho bất động sản thương mại, một lĩnh vực dễ bị tổn thương kể từ đại dịch. Nếu các ngân hàng nhỏ hơn tiếp tục mất tiền gửi hoặc nếu họ cần tăng vốn vì các nhà đầu tư hoặc cơ quan quản lý nghi ngờ sự an toàn của họ, thì họ có thể phải hạn chế các khoản cho vay, làm chậm tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
Một nguyên nhân khác đáng lo ngại là thị trường tín dụng. Lợi suất phụ trội mà các công ty rủi ro nhất phải trả khi đi vay đã tăng lên và ở một số thị trường, tín dụng dường như đang cạn kiệt. Những lo lắng về điều kiện tài chính thắt chặt hơn đã khiến thị trường giảm bớt đặt cược vào lạm phát cao ngay cả khi họ đã định giá bằng việc cắt giảm lãi suất.
Khi cân nhắc triển vọng kinh tế bấp bênh này, các ngân hàng trung ương cũng phải thận trọng với các tín hiệu mà họ gửi đi. Bởi vì họ điều chỉnh các ngân hàng, nên có cái nhìn sâu sắc đặc biệt về sức khỏe của khu vực tài chính. Một lý do khiến Fed đã đúng khi tăng lãi suất trong tuần này là một sự thay đổi đột ngột sẽ gây ra tâm lý hoang mang về những điều mà ngân hàng trung ương biết mà thị trường thì không.
Vậy biện pháp là gì? Mục đích thiết yếu là sửa chữa cách thức điều tiết, để các ngân hàng trung ương được tự do chống lại lạm phát. Một nhiệm vụ lớn là xem xét lại các biện pháp đảm bảo sự đổ vỡ của một ngân hàng không lan sang ngân hàng tiếp theo. Nếu cần, các nhà hoạch định chính sách phải có khả năng tái cấp vốn cho một ngân hàng đang phá sản bằng cách ghi nợ trái phiếu hoặc chuyển đổi chúng thành cổ phiếu.
Ở Mỹ, lợi ích của việc bảo hiểm cho tất cả những người gửi tiền là họ sẽ không có động cơ để rút tiền ra khỏi các ngân hàng nhỏ hơn. Nhưng vấn đề thực sự là các quy định về vốn lỏng lẻo đối với các ngân hàng có tài sản dưới 700 tỷ đô la, và việc lập kế hoạch không đầy đủ cho sự sụp đổ của các ngân hàng có dưới 250 tỷ đô la. Cung cấp bảo hiểm tiền gửi toàn cầu mà không khắc phục những vấn đề đó sẽ khuyến khích mức độ chấp nhận rủi ro quá mức. Các ngân hàng sẽ vẫn mong manh nhưng không bị giám sát bởi những người gửi tiền lớn.
Đừng nhìn xuống
Cho đến khi các ngân hàng đứng vững, các nhà hoạch định chính sách tiền tệ không có lựa chọn nào khác ngoài việc tính đến những nguy cơ mà chúng gây ra cho nền kinh tế. Fed phải xem xét kỹ lưỡng hành vi cho vay của các ngân hàng bị ảnh hưởng và đưa nó vào dự báo kinh tế của mình, đồng thời theo dõi chặt chẽ thị trường tín dụng. Sẽ là sai lầm nếu ngừng chống lạm phát để bảo về cho hệ thống ngân hàng. Nhưng lạm phát cũng cần phải được giảm xuống một cách có kiểm soát, chứ không phải do hậu quả của sự hỗn loạn của cuộc khủng hoảng tài chính và những cú sốc kinh tế mà nó sẽ mang lại. Trên con đường tiến đến mục tiêu, các ngân hàng trung ương đang đi vào một con đường rất hẹp, và dốc núi hai bên đang ngày càng sâu hơn.
theeconomist.com