Người đi vay đang bắt đầu cảm thấy sự khắc nghiệt của thị trường
Nguyễn Thu Thủy
Junior Analyst
Sự sụp đổ của Ngân hàng Thung lũng Silicon đã dẫn tới một loạt những hệ lụy đối với nền kinh tế
Hậu quả của việc một cơ quan quản lý của Mỹ nắm quyền kiểm soát Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB) đang sụp đổ dường như đã quá quen thuộc. Những ngân hàng khác cũng nhanh chóng sụp đổ theo sau vụ phá sản ngân hàng lớn nhất kể từ năm 2008. Ngân hàng Signature đã bị phá sản hai ngày sau đó. Một tuần nữa đã trôi qua, và Credit Suisse, một ngân hàng Thụy Sĩ đã tồn tại 167 năm, buộc phải sáp nhập với UBS đối thủ của mình. Một loạt thất bại tương tự đã gây ra cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu cách đây 15 năm, khi các tổ chức tài chính thắt chặt các quy định cho vay nhằm tự bảo vệ mình, dẫn đến sự sụt giảm tồi tệ nhất trong nhiều thế kỷ. Liệu đây có phải dấu hiệu của lịch sử lặp lại?
Sau một tháng, câu trả lời có vẻ là "không" - hoặc ít nhất là "chưa". Cổ phiếu ngân hàng đang bị nhà đầu tư tránh xa. Giá cổ phiếu của một số công ty cho vay ở khu vực Mỹ đã giảm mạnh: First Republic's đã giảm hơn 90% kể từ tháng Hai. Thị trường trái phiếu đã bị tạm dừng trong sáu ngày sau sự sụp đổ của SVB, không có trái phiếu mới nào được phát hành bởi các tập đoàn Mỹ.
Thị trường trái phiếu được mở lại vào nửa cuối tháng 3, và cả người đi vay và người cho vay đều hối hả quay trở lại. Bất chấp kỳ nghỉ kéo dài một tuần, các tổ chức phát hành cấp đầu tư đã bán khoản nợ trị giá 103 tỷ đô la trong tháng 3, gần bằng mức trung bình hàng tháng của năm ngoái. Lotfi Karoui của ngân hàng Goldman Sachs cho biết đối với những tổ chức phát hành như vậy, lợi suất đã giảm và " thị trường đang rộng mở". " Thị trường chưa thực sự chấp nhận ý kiến cho rằng [các sự kiện của tháng 3] sẽ leo thang thành một cuộc khủng hoảng tài chính". Ngay cả những tổ chức phát hành rủi ro nhất cũng có thể huy động vốn trước cuối tháng.
Mặc dù mối đe dọa về một thảm họa dường như đã biến mất, những người đi vay vẫn ở trong tình trạng khó khăn. Cục Dự trữ Liên bang là nguyên nhân gây áp lực rõ ràng nhất, đã tăng lãi suất từ gần bằng 0 lên từ 4.75 % đến 5% kể từ tháng 3 năm ngoái. Việc tăng giá đã nhanh chóng chuyển thành chi phí trả nợ lớn hơn cho các tập đoàn đã vay khoản vay 1.5 nghìn tỷ đô la, vốn có xu hướng có lãi suất thả nổi. Toàn bộ tác động vẫn chưa được nhận ra bởi các tổ chức phát hành trái phiếu có lãi suất cao, những người đã vay một số tiền tương đương và thường trả các phiếu lãi suất cố định - chỉ tăng lên khi trái phiếu được tái cấp vốn. Mặc dù thị trường dự đoán lãi suất sẽ giảm một điểm trong năm nay, nhưng chủ tịch của Fed dự đoán trung bình lãi suất cuối năm sẽ là hơn 5%. Càng ít có khả năng xảy ra thảm họa tài chính, càng nhiều khả năng dự báo của Fed là hợp lý.
Ngay cả trước khi SVB sụp đổ, các ngân hàng cũng đã không sẵn sàng cho vay. Theo Mike Scott của công ty quản lý tài sản Man Group, vào cuối năm 2022, các cuộc thăm dò cho thấy các yêu cầu cho vay đã thắt chặt đến mức từng xảy ra suy thoái trong các chu kỳ kinh doanh trước đó. Tình trạng hỗn loạn tháng trước, tập trung vào các ngân hàng vừa và nhỏ ở Hoa Kỳ, có khả năng đã siết chặt hơn nữa.
Các nhà phân tích tại Goldman Sachs ước tính rằng các ngân hàng có tài sản dưới 250 tỷ đô la chiếm 50% cho vay thương mại và công nghiệp, và 45% cho người tiêu dùng. Tỷ lệ này nhảy vọt lên 70% đối với các doanh nghiệp nhỏ có ít hơn 100 nhân viên. Những công ty này sử dụng nhiều lao động hơn một phần ba lực lượng lao động khu vực tư nhân và tạo ra một phần tư tổng sản lượng của đất nước, sẽ là những chủ thể dễ bị tổn thương nhất trước cuộc khủng hoảng tín dụng sắp xảy ra. Một nhà quản lý tài sản khác, Peter Harvey của Schroder, dự báo "các giao ước mạnh mẽ hơn, chênh lệch [lãi suất] cao hơn, khối lượng phát hành thấp hơn, quy mô vay nhỏ hơn và kiểm soát chặt chẽ hơn đối với mức độ rủi ro của người cho vay theo ngành".
Vấn đề căng thẳng cuối cùng sẽ là thanh khoản của chính doanh nghiệp, vốn đã giảm đáng kể trong năm qua. Sau sự xuất hiện của Covid-19, những doanh nghiệp đi vay đã tích lũy được lượng tiền mặt khổng lồ, được hỗ trợ bởi lãi suất cực thấp và dòng tiền mới được cung cấp từ các ngân hàng trung ương. Vào năm 2020, doanh nghiệp cấp đầu tư trung bình của Mỹ giữ lại tiền mặt bằng 6.5% tài sản, mức cao nhất trong 30 năm trước.
Con số này hiện đã giảm xuống còn 4.5%, tương đương với mức trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2010. Kết quả là, các công ty hiện có ít cơ hội hơn để sử dụng hết dự trữ tiền mặt hiện có nếu lãi suất vẫn ở mức cao và có nhiều khả năng cần phải vay để đối phó với những cú sốc trong tương lai. Sự điên cuồng của tháng Ba trong ngành tài chính có thể không dẫn đến việc lặp lại năm 2008. Tuy nhiên, đời sống của những người đi vay vẫn ngày càng khó khăn .
The Economist