Chiến tranh Lạnh II đang leo thang nhanh hơn Chiến tranh Lạnh I
Tạ Thị Giang
Junior Analyst
Để hiểu điều gì đang bị đe dọa trong cuộc chiến chống lại liên minh Trung Quốc, Nga và Iran, hãy đọc "The Lord of the Rings" (Chúa tể của những chiếc nhẫn).
Trong tác phẩm sử thi vĩ đại "Chúa tể của những chiếc nhẫn" của J.R.R. Tolkien, sự liên minh của các thế lực bóng tối dần được hé lộ. Sauron, với con mắt tà ác có thể nhìn thấu tất cả, nổi lên với tư cách là thủ lĩnh của một phe phái tà ác hùng mạnh: Kỵ sĩ Đen, gã phù thủy bị tha hóa Saruman, lũ Orc hạ đẳng, tên cận thần độc ác Wormtongue, con nhện độc khổng lồ Shelob - tất cả bọn chúng đều cùng phe, và Mordor là sào huyệt của chúng.
Tolkien thấu hiểu những gì ông viết. Là một cựu chiến binh của Thế chiến I, ông thất vọng khi phải chứng kiến một cuộc đại chiến khốc liệt khác đang đến gần. Vừa nhâm nhi cốc bia đắng vừa hút tẩu thuốc ở "Shire" - vùng Trung Anh lý tưởng của mình - ông chỉ có thể rùng mình khi Đức Quốc xã, phát xít Ý và đế quốc Nhật liên kết thành phe Trục vào năm 1936-1937, và lẩm bẩm "Ta đã bảo mà" khi Hitler và Stalin bắt tay nhau vào năm 1939.
Cũng giống như vậy, chúng ta đang chứng kiến sự hình thành và củng cố của một Phe Trục. Một dòng tweet được đăng tải bởi phát thanh viên bảo thủ Mark R. Levin vào thứ Ba đã khiến nhiều người nghĩ đến Tolkien. “Nhượng bộ là leo thang. Kẻ thù của chúng ta đang hành động. Các đồng minh của chúng ta đang bị bao vây tấn công hoặc sắp bị tấn công. …Chủ nghĩa bảo thủ và MAGA không liên quan đến chủ nghĩa biệt lập hay chủ nghĩa hòa bình. Chúng không liên quan đến sự nhượng bộ hay tự sát quốc gia. ...Chính chúng ta, những người yêu nước Mỹ, phải vào cuộc và hoàn thành điều này ngay bây giờ.”
Sự can thiệp đáng kể của Levin - được viết từ Israel, nơi ông đang thăm viếng - đã đặt ông vào tình thế đối đầu trực tiếp với các phần tử theo chủ nghĩa biệt lập trong Đảng Cộng hòa, chẳng hạn như Dân biểu Marjorie Taylor Greene, người tuần trước đã đe dọa lật đổ Chủ tịch Hạ viện Mike Johnson nếu ông tiếp tục thúc đẩy dự luật khôi phục viện trợ của Mỹ cho Ukraine. "Chúng tôi sẽ bảo vệ tự do và đảm bảo rằng Vladimir Putin không tấn công khắp Châu Âu", Johnson tuyên bố. "Chúng ta phải cho Putin, Tập Cận Bình, Iran và Bắc Triều Tiên, cùng bất kỳ ai khác biết rằng chúng ta sẽ bảo vệ tự do."
Đối với những người như Greene và đồng nghiệp cũ của Levin tại Fox News, Tucker Carlson, cuộc chiến tranh ở Ukraine chỉ đơn giản là “một cuộc cãi vã ở một đất nước xa xôi giữa những người mà chúng ta không hề quen biết”, giống như Thủ tướng Anh Neville Chamberlain đã nói về Tiệp Khắc vào tháng 9 năm 1938. Họ dường như không hề ngượng ngùng khi đóng vai "những kẻ ngốc hữu ích" cho Tổng thống Nga Vladimir Putin, kế thừa trực tiếp những kẻ biện hộ cho Hitler và Stalin vào những năm 1930.
Và không chỉ riêng Putin. Như phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Matthew Miller chỉ ra vào tuần trước, đằng sau nỗ lực chiến tranh của Nga là nguồn lực kinh tế khổng lồ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. "Những gì chúng tôi thấy trong những tháng qua là vật liệu đã được chuyển từ Trung Quốc sang Nga, mà Nga đã sử dụng để xây dựng lại nền tảng công nghiệp (của họ) và sản xuất vũ khí đang xuất hiện trên chiến trường ở Ukraine", Miller nói với các phóng viên vào thứ Ba. "Chúng tôi vô cùng lo ngại về điều đó." Tại Bắc Kinh đầu tháng này, Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen đã cảnh báo người tương nhiệm ở Trung Quốc rằng sẽ có "những hậu quả đáng kể" nếu Trung Quốc tiếp tục hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Nga ở Ukraine.
Mặc dù các nhà lãnh đạo Trung Quốc luôn khẳng định rằng họ muốn đóng vai trò là người hòa giải, nhưng họ đã chính thức chấp thuận cuộc xâm lược Ukraine vào đêm trước cuộc chiến - một cam kết "quan hệ đối tác không giới hạn" được ký kết giữa hai nước còn có thể có ý nghĩa gì khác? - Và sự ủng hộ của Chủ tịch Tập Cận Bình đóng vai trò then chốt đối với sự sống còn của Putin kể từ khi lực lượng xâm lược của ông bị đẩy lùi khỏi ngoại ô Kyiv vào hai năm trước.
Tương tự như vậy, không thể coi cuộc chiến chống lại Israel của Iran là một cuộc chiến biệt lập. Tehran ủng hộ cuộc xâm lược Ukraine của Nga, cung cấp hàng nghìn máy bay không người lái và tên lửa tương tự như những loại vũ khí được sử dụng để chống lại Israel vào cuối tuần trước. Ngược lại, Nga có thể sẽ giúp tăng cường hệ thống phòng không của Iran. Trung Quốc không chỉ là một trong những khách hàng mua dầu chính của Iran; Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị đã gọi điện cho Tehran ngay sau cuộc tấn công vào Israel để khen ngợi thay vì lên án những người tương nhiệm ở Iran . Truyền thông của Trung Quốc đã liên tục chống lại Israel kể từ các cuộc tấn công chết người của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm ngoái.
Sự xuất hiện của Trục quyền lực mới này đã được Zbigniew Brzezinski, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Jimmy Carter, dự báo từ năm 1997. Trong cuốn sách "Bàn cờ Vĩ đại" (The Grand Chessboard), Brzezinski viết:
“Có thể kịch bản nguy hiểm nhất sẽ là một liên minh hùng mạnh giữa Trung Quốc, Nga và có lẽ là cả Iran. Đây sẽ là một liên minh "chống bá quyền" thống nhất không phải bởi ý thức hệ mà bởi những bất bình bổ sung cho nhau. Liên minh này sẽ gợi nhớ về quy mô và phạm vi của thách thức mà khối Sino-Xô Viết từng đặt ra, mặc dù lần này Trung Quốc có thể sẽ là người dẫn đầu và Nga là người theo sau.”
Brzezinski quả là có tầm nhìn xa trông rộng. Tuy nhiên, nhìn lại ba năm qua, thật khó để không kết luận rằng những người kế nhiệm ông trong chính quyền Biden, đã vô tình lẫn cố ý, góp phần đáng kể biến liên minh này thành hiện thực. Bắt đầu từ việc bỏ rơi người Afghanistan cho phiến quân Taliban vào năm 2021, sau đó là không ngăn chặn được Nga xâm lược Ukraine vào năm 2022 và cuối cùng là không thể ngăn chặn Iran kích động các lực lượng ủy thác tấn công Israel vào năm 2023. Đúng là Biden đã ra tay viện trợ Ukraine và Israel khi họ bị tấn công, nhưng một màn phô diễn sức mạnh sớm hơn có thể đã tránh được cả hai cuộc khủng hoảng.
Levin và Johnson đã nhận ra, giống như cựu Ngoại trưởng Mike Pompeo từ lâu đã tranh luận rằng một số cuộc xung đột ở các quốc gia xa xôi cuối cùng cũng liên quan đến Mỹ. Chúng là những phần của một cuộc chiến tranh đang được tiến hành bởi một Trục quyền lực mới chống lại các giá trị cơ bản mà Mỹ và đồng minh coi trọng: dân chủ, pháp quyền và tự do cá nhân. Có thể những lý lẽ phản bác của những người theo chủ nghĩa biệt lập sẽ không còn thuyết phục trong tương lai.
May mắn thay, thế giới đang ở trong Chiến tranh Lạnh II chứ không phải Thế Chiến III. Tuy nhiên, Chiến tranh Lạnh II đang diễn ra với tốc độ nhanh hơn đáng kể so với Chiến tranh Lạnh I. Nếu cuộc xâm lược Ukraine của Nga tương đương với Chiến tranh Triều Tiên 1950-1953, thì cho đến nay, chúng ta đã vượt qua Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba lần thứ hai - liên quan đến Đài Loan - và đã bước vào giai đoạn hòa hoãn, một chuỗi sự kiện tốn đến hai thập kỷ vào lần trước. Kể từ hội nghị thượng đỉnh tổng thống vào tháng 11 năm ngoái ở Woodside, California, Trung Quốc dường như thực sự mong muốn tránh một cuộc đối đầu và muốn tham gia vào một cuộc đối thoại nghiêm túc, mặc dù vẫn còn lạnh nhạt với những người tương nhiệm ở Mỹ, gợi nhớ đến những năm 1969-1972.
Nhưng cuộc tấn công bất ngờ vào Israel của Hamas vào tháng 10 năm ngoái đã đẩy chúng ta trở lại tình hình giống như năm 1973. Nên nhớ rằng tình trạng hòa hoãn không kéo dài được bao lâu sau khi Henry Kissinger thành công khẳng định vị thế bá chủ của Hoa Kỳ ở Trung Đông sau Chiến tranh Yom Kippur năm đó. Nói tóm lại, trong Chiến tranh Lạnh II, dường như những diễn biến của những năm 1950, 1960 và 1970 đang được nén lại thành một chuỗi sự kiện khó hiểu.
Giống như Chiến tranh Lạnh I, Chiến tranh Lạnh II cũng có chiều kích ý thức hệ: ít nhất là một số thành viên Đảng Cộng hòa đã quay trở lại việc bàn về bảo vệ tự do. Đối với Putin và Tập Cận Bình, đó chỉ là mật mã cho các “cuộc cách mạng màu” do CIA hậu thuẫn. Cũng giống như trước đây, Chiến tranh Lạnh là một cuộc chạy đua công nghệ, mặc dù ngày nay ranh giới của sự đổi mới là trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử, vũ khí hạt nhân và “chiến tranh giữa các vì sao” (phòng thủ tên lửa).
Chiến tranh Lạnh II cũng gây ra lạm phát và gây chia rẽ nội bộ. Giống như trước đây, điều quan trọng là mối quan hệ giữa Trung Quốc và Nga. Sự liên minh hiện tại giữa hai nước này thực sự là một thách thức lớn đối với Hoa Kỳ và các nước đồng minh, những người đang rơi vào tình thế giống như Nicholas Spykman hình dung cách đây hơn một thế kỷ - nơi "Vành đai" (Rimland) cố gắng kiềm chế "Trái tim" (Heartland) rộng lớn của Âu Á theo học thuyết của Halford Mackinder. Cũng giống như trước đây, không chỉ có hai phe chính mà còn có phe thứ ba, là một số lượng đáng kể các quốc gia thích trung lập thay vì phải chọn phe.
Vậy đâu là sự khác biệt lớn nhất giữa Chiến tranh Lạnh I và Chiến tranh Lạnh II?
Thứ nhất, Trung Quốc là đối thủ kinh tế lớn hơn nhiều so với Liên Xô trước đây. Thứ hai, kinh tế phương Tây phụ thuộc sâu sắc vào Trung Quốc thông qua mạng lưới chuỗi cung ứng rộng lớn, điều chưa từng có với Liên Xô. Thứ ba, năng lực sản xuất của Mỹ yếu hơn nhiều so với Trung Quốc. Với việc các sản phẩm "xanh" giá rẻ của Trung Quốc tràn ngập thế giới, phương Tây không còn lựa chọn nào khác ngoài việc khôi phục chính sách bảo hộ mậu dịch và chính sách công nghiệp, quay trở lại chiến lược kinh tế của những năm 1970. Cố vấn khí hậu John Podesta đã nói rõ điều này tại Hội nghị thượng đỉnh BNEF của Bloomberg tuần trước. Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen phàn nàn vào tháng trước rằng "công suất dư thừa của Trung Quốc trong các ngành công nghiệp 'mới' như năng lượng mặt trời, xe điện và pin lithium-ion” đang “gây thiệt hại cho các công ty và người lao động Mỹ, cũng như các công ty và người lao động trên toàn thế giới”.
Thứ tư, chính sách tài khóa của Hoa Kỳ đang đi theo hướng hoàn toàn không bền vững. Nói một cách nhẹ nhàng, việc duy trì thâm hụt ngân sách ở mức 7% trong giai đoạn nền kinh tế hoạt động hết công suất không phải là điều mà sách giáo khoa kinh tế vĩ mô khuyến nghị. Quan trọng hơn, như Văn phòng Ngân sách Quốc hội vừa chỉ ra, sự gia tăng không ngừng của nợ công liên bang so với tổng sản phẩm quốc nội - từ 99% trong năm nay lên mức dự kiến 166% vào năm 2054 - chắc chắn sẽ hạn chế các chính quyền trong tương lai, vì lý do đơn giản là một phần của doanh thu không ngừng tăng lên sẽ phải được sử dụng để trả nợ.
Định luật Ferguson nêu rõ rằng bất kỳ cường quốc nào chi tiêu cho việc trả nợ (trả lãi cho khoản nợ quốc gia) nhiều hơn chi tiêu cho quốc phòng thì sẽ không duy trì được vị thế cường quốc lâu dài. Điều này đúng với Tây Ban Nha thời Habsburg, nước Pháp chế độ cũ, Đế chế Ottoman và Đế chế Anh. Và định luật này sắp được kiểm chứng với chính nước Mỹ bắt đầu từ năm nay, khi (theo Văn phòng Ngân sách Quốc hội) chi phí lãi vay ròng sẽ chiếm 3.1% GDP, trong khi chi tiêu quốc phòng là 3.0% GDP. Nếu giả định chi tiêu quốc phòng duy trì ở mức 48% tổng chi tiêu theo quyết định (trung bình của giai đoạn 2014-2023), thì khoảng cách giữa mức chi trả nợ và chi tiêu quốc phòng sẽ ngày càng gia tăng trong những năm tới. Theo dự báo của Văn phòng Ngân sách Quốc hội, đến năm 2041, chi phí lãi vay (4.6% GDP) sẽ gấp đôi ngân sách quốc phòng (2.3%). Để so sánh, trong giai đoạn 1962-1989, lãi vay trung bình chỉ chiếm 1.8% GDP, trong khi quốc phòng là 6.4%.
Chi phí trả nợ ngày càng tăng của Mỹ sẽ vượt xa chi tiêu quốc phòng
Share of GDP
Như Michael Boskin và Kiran Sridhar đã tranh luận gần đây, ngân sách quốc phòng do chính quyền Biden đề xuất cho năm 2025 vốn “không đủ”. Bộ Quốc phòng Mỹ cần phải chi tiêu nhiều hơn nếu muốn ngăn chặn kẻ thù. Nhưng theo tình hình hiện tại, có vẻ như chi tiêu cho quốc phòng chắc chắn sẽ ít hơn.
Thứ năm, các liên minh của Mỹ có thể sẽ yếu hơn so với thời Chiến tranh Lạnh I. Ở châu Âu, Đức thậm chí còn có thái độ mập mờ hơn về sự lãnh đạo của Mỹ đối với liên minh Đại Tây Dương so với thời kỳ Ostpolitik (Chính sách hướng Đông). Ở châu Á, Mỹ có thể nghĩ rằng "Bộ tứ" (Quad) đã biến Ấn Độ thành đồng minh ở châu Á, nhưng liệu Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi có nhấc máy nếu Washington kêu gọi hỗ trợ trong trường hợp khủng hoảng Đài Loan?
Vì tất cả những lý do này, Mỹ không nên quá tự tin về kết quả của Chiến tranh Lạnh II. Đặc biệt, như Elbridge Colby đã liên tục cảnh báo, một cuộc khủng hoảng Đài Loan - nếu Trung Quốc phong tỏa hoặc tấn công Đài Loan trong năm nay - sẽ khiến Mỹ không kịp trở tay. Và Bắc Kinh có thể không tuân theo đánh giá của tình báo Mỹ rằng họ sẽ đợi đến năm 2027 mới hành động.
Tuy nhiên, vẫn còn một điểm tương đồng cuối cùng với Chiến tranh Lạnh I chưa đề cập ở trên. Giống như trước đây, có một sự đồng thuận lưỡng đảng ở Washington rằng siêu cường cộng sản đang là một mối đe dọa nghiêm trọng. Câu hỏi chính trị cần được trả lời trong năm nay là ai là người có khả năng chống lại mối đe dọa đó tốt nhất.
Theo một cách nào đó, Joe Biden và Kamala Harris là hiện thân cho cách tiếp cận của Đảng Dân chủ sau Chiến tranh Việt Nam, từ Jimmy Carter đến Bill Clinton và cuối cùng là Barack Obama. Cách tiếp cận này thường ưu tiên "giảm leo thang" hơn là ngăn chặn (ngay cả ở Ukraine cũng vậy) và có xu hướng cắt giảm ngân sách quốc phòng. Ngược lại, Donald Trump đã chuyển hướng giữa chủ nghĩa hiếu chiến và chủ nghĩa biệt lập, rõ ràng ông thích các cuộc chiến tranh thương mại hơn sự tàn khốc và ác liệt của chiến tranh thực sự. Nhưng tính cách của Trump lại rất hợp để răn đe - ít nhất là đối thủ cảm thấy ông khó đoán hơn. Dưới thời Trump, chi tiêu cho quốc phòng đã tăng lên.
Bằng cách phóng dàn máy bay không người lái và tên lửa vào Israel, người Iran đã vô tình cho phép nhiều đảng viên Cộng hòa đi theo đường lối đối ngoại quyết đoán hơn của Pompeo, nhưng không phải theo chủ nghĩa biệt lập. Hãy đọc bài luận mới nhất trên Foreign Affairs của Mike Gallagher - Đại diện sắp mãn nhiệm của Wisconsin và Matt Pottinger - cựu cố vấn của Trump để hiểu rõ hơn. Họ lập luận rằng “Trung Quốc đang bảo lãnh cho các chế độ độc tài theo chủ nghĩa bành trướng ở Nga, Iran, Bắc Triều Tiên và Venezuela”. Để ngăn chặn điều này, sẽ “cần một cuộc xung đột lớn hơn trong quan hệ Mỹ-Trung” và tăng cường nhanh chóng năng lực quốc phòng của Mỹ." Họ chấp nhận lập luận lâu nay rằng chúng ta đang trong Chiến tranh Lạnh II, nhưng bác bỏ sự hòa giải với lý do rằng điều này sẽ chỉ "củng cố niềm tin của người Trung Quốc rằng họ có thể làm loạn thế giới mà không bị trừng phạt." Nói cách khác, Pottinger và Gallagher muốn đẩy nhanh cuộc chiến tranh lạnh mới này đến những năm 1980.
Liệu bản thân Trump có lắng nghe những lời khuyên này? Nếu Trump lựa chọn theo đuổi chủ nghĩa biệt lập, điều đó có thể ảnh hưởng đến cơ hội tái đắc cử của ông. Nhưng nếu Trump từ bỏ ảo tưởng đó, biết đâu năm nay của ông ấy sẽ là một năm thành công bất ngờ. Mặc dù đã thi hành chính sách ngăn chặn công nghệ Trung Quốc cứng rắn và hiệu quả hơn Trump về nhiều mặt, nhưng Biden hiện tại có vẻ đuối sức. Ông không chỉ tỏ ra kém cỏi trong việc ngăn chặn các đối thủ của Mỹ, thậm chí ông còn không thuyết phục được một đồng minh quan trọng của Mỹ – Israel – làm theo ý mình.
Do đó, có thể ý nghĩa lịch sử cuối cùng của cuộc tấn công của Iran vào Israel không phải là ảnh hưởng của nó đối với Trung Đông mà là lập trường của đảng Cộng hòa Mỹ.
Về mặt nào đó, người Hobbit của Tolkien cũng là những người theo chủ nghĩa biệt lập. Tuy nhiên, dù cho rất muốn sống một cuộc sống yên bình, Frodo và Sam nhận ra rằng họ phải chiến đấu để đến Mordor và mạo hiểm tính mạng để phá hủy Chiếc nhẫn Quyền lực của Sauron. Khi quay trở lại Shire, họ phát hiện ra rằng vùng đất này cũng đã bị kẻ thù chiếm đoạt. Nhưng vẫn chưa quá muộn để cứu vãn tình hình. Bằng chứng là phù thủy độc ác Saruman bỏ mạng ngay trước ngưỡng cửa ngôi nhà thân yêu của Frodo:
“Và thế là hết,” Sam nói. “Một kết cục tồi tệ, ước gì tôi không cần phải chứng kiến những điều này; nhưng may là đã qua rồi.”
“Hy vọng đây là kết thúc hoàn toàn của cuộc chiến,” Merry nói.
“Mong là thế,” Frodo nói và thở dài. “Một nhát chém cuối cùng. Nhưng không ngờ nó lại xảy ra ở đây, ngay trước cửa Bag End! Trong tất cả những hy vọng và nỗi sợ của tôi, ít nhất là tôi chưa bao giờ nghĩ đến điều này.”
“Tôi sẽ không gọi đây là kết thúc, cho đến khi chúng ta dọn dẹp được mớ hỗn độn này,” Sam ủ rũ nói. “Và điều đó sẽ tốn rất nhiều thời gian và công sức.”
Bloomberg