Chương tiếp theo của khủng hoảng dầu mỏ: Ngành công nghiệp dầu mỏ tạm dừng hoạt động
Đạt Nguyễn
Currency Analyst
Giá dầu âm, các tàu chở dầu lang thang trên biển với thứ hàng hóa mà không ai mong muốn, các thương nhân phải tìm mọi cách để tạo ra nơi chứa dầu. Chương tiếp theo trong cuộc khủng hoảng dầu mỏ bây giờ là không thể tránh khỏi: những vùng đất rộng lớn từng là lãnh địa của ngành dầu khí sắp bắt đầu ngừng hoạt động.
Coronavirus đã tác động rất tiêu cực đến ngành công nghiệp dầu mỏ. Đầu tiên, nó phá hủy nhu cầu về dầu mỏ do các nhà máy phải đóng cửa và người dân bị hạn chế cách ly tại nhà. Sau đó, các kho lưu trữ dầu bắt đầu bị lấp đầy và các thương nhân đã phải dùng đến tàu chở dầu đi biển để lưu trữ dầu thô với hy vọng viễn cảnh giá dầu sẽ được cải thiện. Hiện tại chi phí vận chuyển đang tăng cao khi mà tàu chở dầu đã gần như được sử dụng hết - một dấu hiệu cho thấy thị trường đã bị méo mó.
Tác động tiêu cực của việc ngừng sản xuất đối với việc làm, doanh nghiệp, ngân hàng và nền kinh tế địa phương - là một trong những lý do thúc đẩy các nhà lãnh đạo thế giới phải điều tiết cắt giảm sản xuất một cách có trật tự. Nhưng khi quy mô của cuộc khủng hoảng lớn đến mức mà mọi nỗ lực của các chính phủ cũng không thể ngăn giá dầu giảm xuống dưới mức âm vào tuần trước, việc đóng cửa các nhà máy sản xuất và lọc dầu, kịch bản xấu nhất, giờ đã trở thành hiện thực.
“Chúng ta đang đi đến hồi kết. Đỉnh điểm của cuộc khủng hoảng này có thể diễn ra vào khoảng từ đầu đến giữa tháng 5 và chúng ta đang ở rất gần nó, chỉ cách một vài tuần nữa thôi”, Tor Torbjorn Tornqvist, người đứng đầu Gunvor Group Ltd, một trong những công ty lớn nhất trên thế giới về thương mại hàng hóa toàn cầu, đã phát biểu trong một cuộc phỏng vấn mới đây.
Trên lý thuyết, việc cắt giảm sản lượng dầu đầu tiên lẽ ra phải đến từ liên minh OPEC+, liên minh này đã đồng ý giảm sản lượng từ ngày 1 tháng 5. Tuy nhiên, sau khi giá dầu lao dốc thảm khốc vào thứ Hai, khi giá dầu WTI thuộc thị trường tương lai, có kỳ hạn giao vào tháng 5/2020 đã giảm xuống - $40 một thùng, các công ty dầu đá phiến đang ngập trong nợ của Mỹ đã phải cắt giảm sản lượng trước tiên.
Chỉ báo tốt nhất thể hiện sự phản ứng của ngành công nghiệp Mỹ với những thay đổi của thị trường là sự sụt giảm mạnh về số lượng giàn khoan dầu đang hoạt động, tuần trước đã giảm xuống mức thấp trong bốn năm, chỉ bằng khoảng một nửa so với đầu tháng 1/2020. Trước khi cuộc khủng hoảng coronavirus xảy ra, khoảng 650 giàn khoan ở Hoa Kỳ vẫn hoạt động, nhưng vào thứ Sáu vừa rồi, hơn 40% trong số đó đã ngừng hoạt động, chỉ còn lại 378.
Ông Ben Ben Luckock, đồng giám đốc kinh doanh dầu tại Tập đoàn thương mại hàng hóa Trafigura Group, cho rằng sự kiện giá dầu âm vào thứ 2 đã khiến mọi người phải nhận ra rằng phải giảm sản lượng xuống. Đó là một cú tát trời giáng vào thị trường để mọi người nhận ra điều này đang rất nghiêm trọng.
Trafigura, một trong những nhà xuất khẩu dầu thô lớn nhất của Hoa Kỳ từ Vịnh Mexico, tin rằng sản lượng ở Texas, New Mexico, Bắc Dakota và các bang khác sẽ giảm nhanh hơn nhiều so với dự kiến, vì các công ty trên thị trường hàng hóa thực bắt đầu phản ứng với việc giá dầu âm, đã kéo dài trong vài ngày vào cuối tuần trước.
Opec đã đồng thuận cắt giảm sản lượng khoảng 1.5 triệu thùng mỗi ngày cho tới hết tháng 6, trước khi sự kiện giá dầu âm vào thứ 2 xảy ra. Tuy nhiên hành động này dường như là quá muộn. Roger Diwan, nhà phân tích dầu mỏ tại IHS Markit Ltd., cho rằng mức độ nghiêm trọng của áp lực giá có thể đóng vai trò là chất xúc tác cho việc ngưng hoạt động và đóng cửa các nhà máy sản xuất dầu.
Cú sốc về giá dầu âm đã ảnh hưởng đến thị trường hàng hóa thực: các nhà sản xuất dầu thô, trong đó có South Texas Sour và Eastern Kansas Common đã phải trả hơn 50 đô la một thùng để giảm sản lượng vào tuần trước. ConocoPhillips và nhà sản xuất đá phiến Continental Resources Inc. đều đã công bố kế hoạch giảm sản lượng. Các nhà lập pháp ở bang Oklahoma đã bỏ phiếu cho phép các công ty khoan dầu đóng cửa giếng dầu mà không mất hợp đồng thuê; bang New Mexico cũng đưa ra quyết định tương tự.
Tiểu bang North Dakota, trong nhiều năm qua được biết đến với cuộc cách mạng dầu đá phiến ở Mỹ, đang chứng kiến sự suy giảm nhanh chóng. Các nhà sản xuất dầu đã đóng cửa hơn 6,000 giếng, cắt giảm sản xuất khoảng 405,000 thùng mỗi ngày, chiếm khoảng 30% sản lượng của toàn tiểu bang.
Việc cắt giảm sản lượng không chỉ diễn ra tại Hoa Kỳ, mà còn diễn ra ở Chad, một quốc gia nghèo và không giáp biển ở Châu Phi, cho đến Việt Nam và Brazil, các nhà sản xuất ở các quốc gia này hiện cũng đang giảm sản lượng hoặc lên kế hoạch để thực hiện việc cắt giảm sản lượng.
Mitch Flegg, người đứng đầu công ty dầu lửa Biển Bắc Serica Energy, cho biết trong một cuộc phỏng vấn: “Tôi không muốn có dự cảm này, nhưng nó đúng vậy, rõ ràng rủi ro phải đóng cửa các nhà máy đang hiện hữu. Ở một số nơi trên thế giới, đây là một rủi ro thực sự tồn tại và có thể trở thành sự thực”.
Trong các cuộc họp hội đồng khẩn cấp vào tuần trước, các công ty dầu khí đã thảo luận về một viễn cảnh mà mà bất kỳ nhà điều hành dầu mỏ nào cũng chưa từng chứng kiến. Đối với các công ty nhỏ sẽ phải tập trung để sống sót trong vài tuần tới. Nhưng ngay cả đối với những công ty lớn hơn, như Exxon Mobil Corp và BP Plc, đó cũng là một thách thức. Các công ty dầu mỏ lớn, được biết đến với tên gọi “Big Oil” sẽ cho thị trường một cái nhìn sâu sắc về cuộc khủng hoảng khi báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh được phát hành trong tuần này.
Ả Rập Saudi, Nga và phần còn lại của liên minh OPEC + sẽ đàm phán một thỏa thuận cắt giảm sản lượng hơn 20%, tương đương 9.7 triệu thùng mỗi ngày vào thứ Sáu tuần này. Saudi Aramco, công ty do nhà nước sở hữu, đã thực hiện cắt giảm để đạt được mục tiêu. Và các công ty dầu khí của Nga đã tuyên bố giảm sản lượng xuất khẩu dầu thô Urals trong tháng 5 xuống mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua.
Mặc dù vậy, việc cắt giảm có thể vẫn là chưa đủ. Mỗi tuần, 50 triệu thùng dầu thô sẽ được đưa vào kho chứa, đủ để cung cấp nhiên liệu cho Đức, Pháp, Ý, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh cộng lại. Với tốc độ đó, thế giới sẽ hết chỗ chứa dầu vào tháng 6. Những gì không được lưu trữ được ở kho trên bờ, sẽ phải chứa trong tàu chở dầu. Lực lượng bảo vệ bờ biển Hoa Kỳ hôm thứ Sáu cho biết có rất nhiều tàu chở dầu neo đậu ngoài khơi California đến nỗi họ đang phải theo dõi tình hình một cách chặt chẽ.
Các nhà máy lọc dầu đang đứng trước viễn cảnh phải ngừng hoạt động
Nhưng trước khi nhu cầu được phục hồi, việc tạm ngưng hoạt động sẽ vẫn diễn ra trên quy mô lớn tại các nhà máy lọc dầu.
Trong tuần qua, Marathon Chemicals Corp, một trong những công ty lọc dầu lớn nhất của Mỹ, tuyên bố sẽ ngừng sản xuất tại một nhà máy gần San Francisco. Royal Dutch Shell Plc đã giảm công suất của một số đơn vị sản xuất của ba nhà máy lọc dầu ở bang Alabama và Louisiana. Trên khắp châu Âu và châu Á, nhiều nhà máy lọc dầu đang hoạt động với một nửa công suất. Các nhà máy lọc dầu của Hoa Kỳ chỉ lọc khoảng 12.45 triệu thùng mỗi ngày từ 13/04 đến 17/4, mức thấp nhất trong vòng 30 năm qua (trừ các đợt đóng cửa do bão).
Các trader và chuyên gia tư vấn cho rằng nhiều nhà máy lọc dầu sẽ ngừng hoạt động trong thời gian tới, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, nơi mà việc đóng cửa các nhà máy và cách ly bắt đầu muộn hơn ở châu Âu và do đó nhu cầu vẫn còn được kéo dài thêm một thời gian. Steve Sawyer, giám đốc một nhà máy lọc dầu thuộc tập đoàn Fact Global Energy, cho biết các nhà máy lọc dầu trên toàn cầu có thể phải giảm tới 25% công suất trong tháng 5, đó là điều không một công ty nào có thể tránh khỏi.