Góc nhìn phản biện: thị trường lao động Hoa Kỳ không tích cực như báo cáo.
Các báo cáo về thị trường lao động nên được diễn đạt lại để phản ánh thực tế một cách chính xác. So với trước đây, những đợt phục hồi trên thị trường lao động gần đây ngày càng thiếu động lực hơn. Bằng chứng cho thấy triển vọng phục hồi trên thị trường lao động, và rộng hơn là nền kinh tế vẫn chưa thể hiện một cách rõ ràng.
Những phân tích mô tả dữ liệu việc làm gần đây khá khó hiểu. Cục thống kê lao động Mỹ (BLS) vừa đưa ra báo cáo rằng Hoa Kỳ đã có thêm 9.3 triệu việc làm mới kể từ tháng năm. Phương tiện truyền thông đã mô tả rằng thị trường việc làm “tốt hơn mong đợi”. Nhưng không ai nhìn vào con số 22 triệu việc làm đã bị mất đi, vậy con số 9.3 triệu này có còn ý nghĩa?
Mặc dù rất đáng khích lệ khi việc làm được cải thiện trong bối cảnh đại dịch COVID-19, nhưng các nhà đầu tư vẫn nên tránh nhìn thị trường qua lăng kính màu hồng. Bất chấp việc làm tăng, Số người có việc làm tại Hoa Kỳ vẫn thấp hơn 12 triệu so với tháng Hai, thời điểm trước khi đại dịch xảy ra khiến nền kinh tế trở nên ngưng trệ. Ngoài ra, tỉ lệ thất nghiệp đã giảm hơn 15% nhưng vẫn ở mức rất cao.
Đánh giá đúng thị trường lao động
Các báo cáo về thị trường lao động nên được diễn đạt lại để phản ánh thực tế một cách chính xác. Về mặt kỹ thuật, dữ liệu gần đây tốt hơn so với kỳ vọng của các nhà kinh tế, nhưng tình hình được mô tả nên được thể hiện là “vẫn khá tệ nhưng đang được cải thiện”.
Mức tăng việc làm trong ba tháng qua đang lấp đầy tỉ lệ thất nghiệp ở mức kỉ lục do đại dịch COVID gây ra. Như biểu đồ dưới đây thể hiện, mức tăng việc làm của Hoa Kỳ trong ba tháng qua chỉ vừa mới quay trở lại mức tồi tệ nhất trong 70 năm qua. Xin lưu ý rằng một số điều chỉnh làm cho dữ liệu của ngày hôm nay trông đẹp hơn so với thực tế.Ví dụ, theo BLS, trong ba tháng qua đã có thêm 881,000 việc làm mới đến từ việc thành lập các doanh nghiệp mới. So với hoàn cảnh mà chúng ta đang đối mặt, khả năng xảy ra của điều trên là khá xa vời.
Các phương tiện báo chí chỉ đi theo hướng tường thuật.
Như đã thấy rõ từ thực tế thị trường lao động và các đặc điểm của phương tiện truyền thông, lý luận dường như đang đi ngược lại một số kết luận phản ánh cho câu chuyện phục hồi "hình chữ V" được ưa thích. Một thuật ngữ gần đây chúng ta thường nghe thấy là "báo chí theo hướng tường thuật", nó đối lập với báo chí điều tra. Đây là triệu chứng đã xảy ra từ lâu, là một vấn đề lặp đi lặp lại trong quá trình đánh giá "sự phục hồi" của nền kinh tế hậu giai đoạn đóng cửa do Covid-19.
Nếu nhìn vào số lượng việc làm bị mất đi thay vì tỷ lệ thất nghiệp, ta sẽ có một góc nhìn khác về tình hình tồi tệ trên thực tế, như minh họa bên dưới. Thị trường lao động chưa bao giờ chứng kiến sự tồi tệ nào như giai đoạn tháng Tư.
Độ lệch chuẩn của sự thay đổi số lượng việc làm hàng tháng từ năm 1939 đến 2019 là 223,000. Nếu tính theo tỷ lệ phần trăm của lực lượng lao động, 1.3 triệu việc làm bị mất trong tháng 3 là tương đương với 2.7 lần độ lệch chuẩn. Con số việc làm bị mất đi trong tháng tư là 21 triệu tương đương 35.7 lần độ lệch chuẩn. Con số đó thậm chí còn khó hiểu hơn hình ảnh trên biểu đồ trên. Tồi tệ hơn nhiều so với cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Việc làm trong tháng Bảy tăng ấn tượng 1.8 triệu và như đã đề cập, nền kinh tế đã có thêm 9 triệu việc làm kể từ tháng Tư. Trong khi nhiều người vẫn cho rằng con số này là đáng khích lệ, thì thực tế làtrong những người bị mất việc vào tháng Ba và tháng Tư, phần lớn hiện vẫn tiếp tục thất nghiệp. Không chỉ vậy, một tỷ lệ lớn những người hiện đang có việc vẫn đang lo sợ một lần nữa bị thất nghiệp. BLS đã loại 2.8 triệu người khỏi lực lượng lao động khiến tỉ lệ thất nghiệp có vẻ như đẹp hơn.
Hãy thận trọng hơn khi nhìn về phía trước
Theo kết quả nghiên cứu gần đây được thực hiện bởi Cornell’s Daniel Alpert, Chỉ số Chất lượng Việc làm Hoa Kỳ (JQI và RIWI), chỉ ra rằng sự cải thiện trên thị trường lao động là khó có thể duy trì. Hơn nữa, phân tích của họ cho thấy một tỷ lệ khá lớn trong số việc làm mới được tạo ra là việc làm tạm thời.
Kết quả khảo sát của họ dấy lên mối lo ngại về tính phức tạp của việc giải thích số liệu việc làm mới tăng thêm kể từ tháng Năm. Kết quả khảo sát đó nhằm mục đích phân tích mức độ tổn thương của người lao động Mỹ khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong bối cảnh sự hỗ trợ của chính phủ giảm đi, dữ liệu của cho thấy mối lo ngại này là có cơ sở. Mặc dù các dữ liệu kinh tế chưa hiển thị rõ mức độ ảnh hưởng lên thị trường lao động, một đợt sa thải khác đang thực sự diễn ra trong các doanh nghiệp. Nghiên cứu cho thấy rằng các vấn đề trên thị trường lao động là “quan trọng hơn chúng ta nghĩ và mang tính hệ thống”, đó không phải là vấn đề riêng của bất cứ quốc gia nào.
Xu hướng trên thị trường lao động không phản ánh triển vọng tốt
Nhìn lại những lần phục hồi trước đây, được thể hiện trong biểu đồ dưới đây, những đợt phục hồi trên thị trường lao động ngày càng thiếu lực hơn. Xu hướng đó là bằng chứng cho thấy triển vọng phục hồi trên thị trường lao động, và rộng hơn là nền kinh tế vẫn chưa thể hiện một cách rõ ràng.
Hiện tại, các gói kích thích kinh tế khổng lồ đang cố gắng hỗ trợ một nền kinh tế đang rất ốm yếu. Việc hỗ trợ ồ ạt đã che lấp sự đánh giá hợp lý về các yếu tố nền tảng của nền kinh tế. Chúng ta cần thận trọng để đưa ra những kết luận hợp lý về tình hình kinh tế hiện tại và quan trọng hơn là triển vọng kinh tế. Nhiệm vụ đó là khá khó khăn.
Phân tích thêm các yếu tố chính trị
Trong khi đó, các thành phố bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi virus vẫn đang trong tình trạng khó khăn. Đối với các thành phố lớn nhất như Chicago, Los Angeles và New York, hầu hết các động lực làm nên một thành phố sôi động và năng động vẫn đang chìm trong giấc ngủ. Theo phân tích về các chủ đề thảo luận gần đây trên Twitter, các nhà hàng, câu lạc bộ, quán nhạc sống, sự kiện thể thao và nhà hát sẽ khó phục hồi nếu thời gian tạm dừng hoạt động kéo dài suốt 5-6 tháng. Họ không có đủ vốn để tồn tại trong thời gian tạm dừng dài như vậy.
Hành vi tiêu dùng sẽ thay đổi nhiều ngay cả sau khi các thành phố hoạt động trở lại như bình thường. Các thị trưởng và thống đốc hầu như không hiểu rõ được sự đánh đổi giữa tình trạng đóng cửa và mức độ tàn phá kinh tế. Điều trớ trêu là việc mở cửa nền kinh tế trở lại vào thời điểm này sẽ phơi bày mức độ thiệt hại kinh tế. Đối với các chính trị gia của những bang bị ảnh hưởng nặng nề nhất, việc này lại là một vấn đề quan trọng.
Như Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Jean-Claude Juncker đã từng nói: “Tất cả chúng ta đều biết cần phải làm gì, chúng ta chỉ không biết làm thế nào để được bầu lại sau khi làm điều đó”.
Lời kết
Tiêu dùng cá nhân chiếm đến 70% GDP. Do đó, không có dữ liệu kinh tế nào quan trọng hơn bức tranh việc làm. Đây không phải là cái nhìn bi quan một cách phi lý để phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của kinh tế, mà là sự thận trọng. Mặc dù tạm thời đáng khích lệ, nhưng kịch bản về sự phục hồi sau đại dịch sẽ diễn ra mạnh mẽ hay theo “hình chữ V” là khó có thể xảy ra. Không chỉ vậy, việc nhận định sai lầm về thị trường việc làm khuyến khích các hành vi và các quyết định có hại cho triển vọng phục hồi. Chúng ta nên chuẩn bị tinh thần cho điều tồi tệ nhất và hy vọng rằng điều tốt nhất có thể xảy ra, vì triển vọng phục hồi trong thời gian ngắn là không chắc chắn. Nói một cách khác, việc không chuẩn bị cho những viễn cảnh xấu chính là sự thất bại.