Liệu xe điện có ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu dầu mỏ?
Tuấn Hưng
Junior Analyst
Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) dự báo nhu cầu dầu toàn cầu sẽ đạt đỉnh trong 5 năm tới. Lý do chính cho điều này là tỷ lệ xe điện ngày càng tăng, dự kiến sẽ làm giảm mức tiêu thụ trong lĩnh vực vận tải. Vì năng lực sản xuất có khả năng sẽ được mở rộng đáng kể cùng lúc, nên có nguy cơ dư thừa đáng kể trên thị trường dầu mỏ có thể gây áp lực lên giá dầu. Tuy nhiên, OPEC+ có thể sẽ tiếp tục cắt giảm nguồn cung dầu trong một thời gian để ngăn giá dầu trượt dốc
Nhu cầu dầu đang gần chạm đỉnh
Liệu việc nhu cầu gia tăng kéo dài của dầu mỏ toàn cầu có sớm kết thúc không? Ít nhất là Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) đưa ra những nhận định như vậy. Trong triển vọng trung hạn mới công bố “Dầu mỏ 2024”, cơ quan này dự đoán rằng mức tiêu thụ dầu sẽ giảm từ cuối thập kỷ này. Đây là một thay đổi đáng kể trong kỳ vọng của cơ quan này. 5 năm trước, trong Triển vọng Năng lượng Thế giới dài hạn, cơ quan này vẫn cho rằng trong kịch bản chính dựa trên các biện pháp chính trị được thực hiện cho đến thời điểm đó và nhu cầu dầu mỏ toàn cầu sẽ tiếp tục tăng cho đến năm 2040.
Chỉ trong cái gọi là kịch bản bền vững, trong đó các biện pháp môi trường nghiêm ngặt hơn được giả định thì cơ quan này mới kỳ vọng một bước ngoặt sớm hơn. IEA cho rằng nhu cầu ở Châu Âu và Bắc Mỹ đã qua mức đỉnh từ lâu. Ngược lại, mức tiêu thụ ở các khu vực khác sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới, mặc dù mức tăng sẽ ổn định từ năm 2027 trở đi, nghĩa là nhu cầu dầu mỏ toàn cầu dự kiến sẽ đạt đỉnh vào cuối thập kỷ này (Biểu đồ 1).
Biểu đồ 1: Nhu cầu dầu mỏ tại các quốc gia công nghiệp được dự báo sẽ giảm từ năm nay
Các xe chạy bằng điện làm giảm nhu cầu dầu mỏ…
Động lực chính thúc đẩy nhu cầu dầu mỏ toàn cầu trong ba thập kỷ qua là lĩnh vực vận tải, hiện chiếm gần hai phần ba nhu cầu (Biểu đồ 2). Sự gia tăng này hiện đã sắp kết thúc. Hiệu suất nhiên liệu được cải thiện ở động cơ đốt trong, vốn đã được quan sát thấy trong những năm gần đây, dự kiến sẽ góp phần vào điều này. IEA ước tính rằng mức tiêu thụ xăng toàn cầu trên mỗi km của ô tô chở khách đã giảm 11% từ năm 2000 đến năm 2021.
Biểu đồ 2: Nhu cầu của ngành vận chuyển là động lực chính của nhu cầu dầu mỏ cho đến nay
Sự hiệu quả trong việc sử dụng nhiên liệu dầu mỏ đã bị bù đắp bởi số lượng ô tô ngày càng tăng, đặc biệt là khi đang xuất hiện xu hướng sử dụng những chiếc ô tô lớn hơn. Mặc dù những hiệu quả trong việc sử dụng xăng dầu này được dự kiến sẽ tiếp tục, nhưng chúng sẽ thậm chí còn được khuếch đại hơn nhiều bởi sự gia tăng nhanh chóng của thị phần xe điện (EV). Trên thực tế, doanh số bán hàng của EV gần đây đã tăng đáng kể: Trong khi chỉ có 3 triệu EV được bán trên toàn thế giới vào năm 2020, con số này đã tăng lên 14 triệu vào năm ngoái. Điều đó tương đương với việc một trong năm ô tô mới mua là xe điện.
Có một số dấu hiệu cho thấy xu hướng này sẽ tiếp tục. Ít nhất là ở EU, giá carbon tăng đáng kể có thể khiến xăng, dầu diesel và việc sử dụng động cơ đốt trong ngày càng đắt đỏ. Đồng thời, những nhược điểm của việc sử dụng EV đang giảm bớt. Phạm vi hoạt động của EV đã tăng đáng kể trong những năm gần đây và dự kiến sẽ có những tiến bộ hơn nữa trong công nghệ pin trong những năm tới. Cơ sở hạ tầng với những chạm sạc cũng có khả năng được mở rộng hơn nữa. Ngoài ra, xe điện có thể sẽ trở nên rẻ hơn so với xe thông thường theo thời gian và việc mở rộng phạm vi mẫu xe và nhiều lựa chọn xe nhỏ hơn có thể đảm bảo sự đón nhận lớn hơn, đặc biệt là ở các thị trường mới nổi. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, có khả năng sẽ có các chương trình trợ cấp của chính phủ cho xe điện.
Xe điện sẽ khiến nhu cầu xăng dầu giảm đi bao nhiêu?
Do đó, câu hỏi không phải là liệu tỷ lệ xe điện có gia tăng hay không, mà là mức tăng này sẽ mạnh đến mức nào. Dự báo của IEA về nhu cầu dầu dựa trên giả định rằng 40 triệu ô tô có xe điện sẽ được bán vào năm 2030, nghĩa là cứ mỗi giây sẽ có một chiếc ô tô mới là xe điện. Tại Trung Quốc, thị phần gần đây đã rất gần với con số này ở mức 38%. Có khả năng sẽ có thêm tiến triển, cũng vì giá xe điện đã bắt kịp với xe có động cơ đốt trong thông thường và xe điện nhỏ thậm chí còn rẻ hơn. Tuy nhiên, tại Châu Âu, thị trường bán hàng lớn thứ hai, thị phần xe điện vào năm 2023 vẫn thấp hơn nhiều với chỉ hơn 20% và tại Hoa Kỳ, thị phần này thấp hơn đáng kể ở mức 10% vào năm 2023 mặc dù tốc độ tăng trưởng mạnh trong thời gian gần đây.
Thực tế là doanh số bán xe điện tại ba thị trường này chiếm tổng cộng 95% doanh số, gần đây đã chững lại khiến chúng tôi nghi ngờ rằng kỳ vọng của IEA sẽ được đáp ứng. Nếu xu hướng bán hàng kể từ đầu năm 2022 tiếp tục, thị phần xe điện chạy bằng pin trong số những chiếc xe mới tại ba thị trường bán hàng trọng yếu nhất là Trung Quốc, EU và Hoa Kỳ có khả năng chỉ đạt 30% vào năm 2030. Ngược lại, nếu xu hướng tuyến tính kể từ đầu năm 2020 tiếp tục, thị phần sẽ đạt 45% vào năm 2030 (Biểu đồ 3).
Ngoài ra còn có nguy cơ gặp phải những trở ngại chính trị ở cả EU và Hoa Kỳ. Ví dụ, lệnh cấm bán ô tô có động cơ đốt trong tại EU, dự kiến có hiệu lực vào năm 2035, đang ngày càng bị đặt dấu hỏi. Tại Hoa Kỳ, đà tăng trưởng có khả năng sẽ bị đình trệ, đặc biệt là nếu Donald Trump tái đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ. Ví dụ, khi được đề cử làm ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa, ông đã tuyên bố sẽ chấm dứt chính sách phương tiện điện tử mà Tổng thống Biden theo đuổi ngay trong ngày đầu tiên nhậm chức.
Nhu cầu sử dụng dầu thấp hơn để phát điện, ...
Tất nhiên, nhu cầu về dầu cũng có thể giảm ở các thị trường khác: Ví dụ, ở Trung Đông, dầu vẫn được sử dụng để tạo ra điện vào thời điểm tải cao điểm. Việc mở rộng năng lượng khí đốt và năng lượng mặt trời sẽ làm giảm bớt tình trạng này. Tuy nhiên, điều này dự kiến sẽ chỉ tiết kiệm được 1% nhu cầu dầu toàn cầu.
Nhưng cầu gia tăng từ các ngành công nghiệp và vận tải hàng không
Ở hầu hết các phân khúc sản phẩm, nhu cầu về dầu thậm chí còn tăng: trước hết và quan trọng nhất, điều này áp dụng cho hóa dầu, vì nhu cầu về polyme và sợi tổng hợp tiếp tục tăng. Động lực tăng trưởng thứ hai là sự gia tăng của lưu lượng hàng không và nhu cầu về nhiên liệu phản lực, mặc dù đây vẫn là phân khúc tương đối nhỏ chỉ chiếm 7% nhu cầu.
Nhu cầu đạt đỉnh, …
Mặc dù nhu cầu vẫn tăng ở một số khu vực, nhưng nhu cầu về dầu toàn cầu thực sự có khả năng đạt đỉnh trong những năm tới. Điều này là do tỷ lệ xe điện ngày càng tăng và nhu cầu về dầu thấp hơn trong giao thông đường bộ có khả năng bù đắp cho nhu cầu liên tục tăng, đặc biệt là từ ngành công nghiệp (biểu đồ 4).
... Nhưng có lẽ sẽ muộn hơn một chút so với dự báo của IEA
Tuy nhiên, doanh số bán xe điện tăng chậm lại gần đây cho thấy mức tiêu thụ dầu sẽ không đạt đỉnh vào năm 2029, mà có thể là trong nửa đầu thập kỷ tới và nhu cầu dầu hàng ngày có khả năng tăng khoảng 5 triệu thùng vào thời điểm đó. Điều này dựa trên giả định rằng nhu cầu mỗi ngày sẽ tăng khoảng 1 triệu thùng trong mỗi năm tới. Điều này tương ứng với mức tăng mà IEA dự kiến cho năm nay và năm sau. Về cuối thập kỷ, nhu cầu tăng trưởng có khả năng sẽ giảm đều đặn. IEA cũng chỉ ra rằng nhu cầu về dầu có thể tiếp tục tăng sau năm 2029 nếu xe điện được triển khai chậm hơn.
Biều đồ 3: Doanh thu xe điện đang chậm lại
Biểu đồ 4: IEA dự báo nhu cầu của nhiên liệu đường bộ sẽ đạt đỉnh
Công suất đang tăng lên…
Cùng lúc nhu cầu đang ổn định, tốc độ sản xuất toàn cầu có khả năng sẽ tiếp tục tăng đáng kể. Một mặt, sản lượng khí đốt tự nhiên, trong đó khí đốt tự nhiên lỏng (NGL) và chất ngưng tụ được sản xuất dưới dạng sản phẩm phụ có khả năng sẽ tăng đáng kể. Thứ hai, các dự án mới sẽ tiếp tục có lãi, ít nhất là trong ngắn hạn, vì giá dầu vẫn tương đối cao. IEA cho rằng công suất dư thừa sẽ lên tới khoảng 8 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2030. Con số này sẽ cao hơn đáng kể so với hiện tại. Do kết quả của việc cắt giảm sản lượng tự nguyện của OPEC+ và tác động của các lệnh trừng phạt, hiện tại con số này lên tới khoảng 6 triệu thùng mỗi ngày. Riêng Ả Rập Xê Út chiếm khoảng một nửa con số này.
Nhưng OPEC+ có thể ngăn chặn việc giá dầu sụp đổ
Tuy nhiên, Saudi Arabia đã tuyên bố rằng họ sẽ từ bỏ kế hoạch mở rộng thêm 1 triệu thùng công suất sản xuất dầu thô và không tăng tổng sản lượng lên 13.5 triệu thùng thôi ngày. Ngoài ra, Nga và Iran khó có thể duy trì sản lượng ổn định ở mức hiện tại cho đến năm 2030, như IEA đã giả định. Nếu Donald Trump thắng cử tổng thống Hoa Kỳ vào tháng 11, các lệnh trừng phạt của Hoa Kỳ vẫn áp dụng đối với Iran có khả năng sẽ được thực thi nghiêm ngặt hơn nữa, điều này có nghĩa là sản lượng sẽ giảm đáng kể. Tương tự như vậy, sản lượng ở Nga có khả năng ngày càng bị ảnh hưởng bởi tình trạng thiếu phụ tùng thay thế và thiết bị kỹ thuật từ phương Tây, vì những thứ này cần thiết cho việc bảo trì cơ sở hạ tầng và mở rộng và phát triển các dự án hiện có và mới.
Ngoài ra, OPEC, và đặc biệt là Saudi Arabia, có khả năng sẽ tạm dừng công suất bổ sung và từ đó giúp bình ổn thị trường. Điều này là do ngân sách quốc gia của các quốc gia này phụ thuộc rất nhiều vào doanh thu từ lĩnh vực dầu mỏ. Theo tính toán của IMF, Ả Rập Xê Út hiện cần giá dầu khoảng 95 USD để cân bằng ngân sách nhà nước. Ngoài ra, bài học năm 2015 vẫn còn đó, khi mà Saudi Arabia mở vòi dầu để buộc sản lượng dầu đá phiến của Hoa Kỳ ra khỏi thị trường với giá thấp hơn. Tuy nhiên, biện pháp này đã không thành công trong dài hạn vì các nhà sản xuất dầu đá phiến đã có thể giảm đáng kể chi phí của họ, kết quả là Saudi Arabia đã quay lại chính sách ổn định thị trường của mình hai năm sau đó. Tuy nhiên, trong quá trình này, liên minh sản xuất mở rộng OPEC+ đã được thành lập, trong đó Saudi Arabia vẫn phối hợp chiến lược sản xuất của mình với Nga cho đến ngày nay. Thành công của OPEC+ trong những năm gần đây cho thấy rằng liên minh này cũng sẽ thành công trong việc chống lại sự sụt giảm mạnh và kéo dài về giá trong tương lai. Nếu không có các biện pháp ổn định thị trường này, giá dầu sẽ chịu áp lực do năng lực sản xuất mở rộng mạnh mẽ, phần lớn trong số đó sẽ diễn ra trong hai đến ba năm tới. Tuy nhiên, đồng thời, tình trạng dư thừa công suất sẽ ngăn chặn giá tăng cao đáng kể, nghĩa là mức giá trên 100 USD trong gian dài hạn là không thể, nếu như không có các cuộc xung đột chính trị leo thang.
Commerzbank