Mô hình kinh tế xác nhận: Suy thoái của Hoa Kỳ 100% xảy ra
Đạt Nguyễn
Currency Analyst
Chủng mới của coronavirus đã thúc đẩy cuộc suy thoái tồi tệ nhất trong lịch sử khi nền kinh tế Hoa Kỳ bị đình trệ và hàng triệu người mất việc.
Bloomberg Economics đã tạo ra một mô hình vào năm ngoái để xác định khả năng suy thoái của Mỹ. Xác suất xảy ra suy thoái bây giờ đã đạt mức 100%, xác nhận kết thúc một giai đoạn tăng trưởng kinh tế dài nhất.
Mặc dù phần lớn dữ liệu kinh tế đầu vào tính toán cho mô hình là dữ liệu chậm, các hồ sơ xin trợ cấp thất nghiệp - được báo cáo với độ trễ chưa đầy một tuần - đã chứng kiến sự gia tăng chưa từng thấy vào cuối tháng 3. Khoảng 10 triệu đơn xin trợ cấp thất nghiệp đã được đệ trình trong hai tuần cuối tháng, nhấn mạnh sự suy giảm mạnh trong thị trường lao động.
Suy thoái đã bắt đầu
Mô hình tính toán xác suất suy thoái được phát triển bởi các nhà kinh tế của Bloomberg là Eliza Winger, Yelena Shulyatyeva, Andrew Husby và Carl Riccadonna kết hợp một loạt các dữ liệu bao gồm các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính và các đo lường căng thẳng tiềm ẩn.
Sự gia tăng trong xác suất suy thoái chủ yếu phản ánh những con số tuyên bố thất nghiệp gây sốc, nhưng giá cổ phiếu giảm mạnh liên tục hầu như trong cả tháng cũng là một phần nguyên nhân. Theo mô hình này, nếu tính trong tháng Hai, xác suất này đạt 33%. Tại thời điểm báo cáo trước, Bloomberg Economics đã tính đến dữ liệu thị trường tài chính sớm cho tháng Ba, xác suất này đạt con số 53%.
Thất nghiệp gia tăng, chứng khoán lao dốc
Người Mỹ ngày càng bi quan về triển vọng, một chỉ số về tâm lý người tiêu dùng đã giảm mạnh nhất vào tháng trước kể từ tháng 10 năm 2008. Báo cáo việc làm tháng 3 cho thấy các nhà tuyển dụng đã cắt giảm ròng 701,000 việc làm trong tháng, nhiều nhất kể từ Đại suy thoái - và một con số phản ánh chỉ nửa đầu tháng.
Thông thường, sự gia tăng con số xin trợ cấp thất nghiệp hàng tuần là một trong những chỉ số mà các nhà kinh tế tìm đến đầu tiên cho các dấu hiệu Hoa Kỳ đang tiến vào suy thoái kinh tế. Lần này, con số này đã tăng với tốc độ nhanh đến mức nền kinh tế đang bị tổn thương và đi vào suy thoái đã được thông báo trước.
Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ (Fed) đã có những bước đi mạnh mẽ để làm dịu đi cú sốc kinh tế. Ngân hàng trung ương đã hạ lãi suất xuống gần bằng 0 vào tháng trước và cho biết họ sẽ mua một lượng không giới hạn trái phiếu kho bạc và chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp để giữ cho thị trường hoạt động và chi phí đi vay thấp.
Chính phủ cũng đã có hành động nhanh chóng. Tổng thống Donald Trump tháng trước đã thông qua gói cứu trợ lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, cung cấp khoảng 2 nghìn tỷ USD hỗ trợ nền kinh tế. Luật này bao gồm các khoản thanh toán trực tiếp cho nhiều người Mỹ và trợ giúp tài chính cho các doanh nghiệp nhỏ, mặc dù chưa rõ ràng viện trợ có đến đủ nhanh với một số công ty.
Không có giới hạn
Theo định nghĩa, một cuộc suy thoái là hai quý liên tiếp tăng trưởng âm. Hội đồng các giáo sư kinh tế tại Cục nghiên cứu kinh tế quốc gia có cách tiếp cận toàn diện hơn, xác định suy thoái kinh tế là “một sự suy giảm đáng kể trong hoạt động kinh tế lan rộng khắp nền kinh tế, kéo dài trong một vài tháng”.
Tuy nhiên, định nghĩa về việc suy thoái thường mất khoảng 6 đến 12 tháng để thông qua, do đó, sự tồn tại của một cuộc suy thoái có thể được chấp nhận rộng rãi trước khi nó được công bố chính thức. Biểu đồ dưới đây cho thấy, không phải tất cả các cuộc suy thoái giống nhau. Cuộc suy thoái 2007-2009 đặc biệt kéo dài và sâu sắc vì nó diễn ra trùng với một cuộc khủng hoảng tài chính. Các cuộc suy thoái khác đã ngắn hơn và nông hơn.
Nông hay sâu?
Sự suy thoái thường đi kèm với sự gia tăng nhanh chóng trong tỷ lệ thất nghiệp. Tỷ lệ thất nghiệp khác nhau rất nhiều giữa các đợt suy thoái tùy thuộc vào độ rộng và mức độ nghiêm trọng của suy thoái kinh tế. Trong khi thất nghiệp lên đến đỉnh điểm 10% trong năm 2009, và thậm chí còn tăng cao hơn vào đầu những năm 1980, những đợt suy thoái khác đã mang đến sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn (nhưng vẫn đau đớn). Nhiều nhà kinh tế dự đoán tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng lên khoảng 15% hoặc cao hơn trong những tháng tới, khi hàng triệu người Mỹ bị thất nghiệp.