Thế giới hậu đại dịch Covid-19: Cơ hội và thách thức
Nam Anh
Senior Economic Analyst
“Đại dịch covid-19 sẽ đẩy nhanh những sự thay đổi trong nền kinh tế thế giới. Điều đó mang lại cả những cơ hội và thách thức”, Henry Curr nói
Lý thuyết về "thiên nga đen" nói rằng các sự kiện tác động mạnh không thể tiên đoán trước đóng một vai trò to lớn hơn hầu hết những gì mọi người nhận ra. Rất lâu trước năm 2020, các nhà khoa học lo ngại rằng một căn bệnh hô hấp lây truyền từ động vật có thể bắt nguồn từ châu Á và lây lan trên toàn cầu. Nhưng hầu như không ai lường trước được hậu quả của 1 sự kiện như vậy. Hàng thập kỷ trôi qua êm đềm cho đến năm 2020, khi đại dịch covid-19 bùng nổ, làm xáo trộn và đình trệ tất cả mọi thứ.
Trước năm 2020, mô hình phức tạp nhất cho rằng một đại dịch với sức tàn phá tương đương với dịch cúm Tây Ban Nha năm 1918 có thể giết chết 71 triệu người trên toàn thế giới và dẫn đến sự sụt giảm 5% gdp toàn cầu. Số người chết do covid-19 có vẻ thấp hơn nhiều, tuy nhiên mức độ ảnh hưởng đến GDP đã lớn hơn. Theo dự báo của IMF vào tháng 6, sẽ được cập nhật sau khi báo cáo này được công bố, vào cuối năm 2020, tổng sản lượng của thế giới có thể thấp hơn khoảng 8% so với khi không có đại dịch. Thay vì tăng khoảng 3%, nó sẽ giảm khoảng 5% - mức thu hẹp lớn nhất kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Để so sánh, vào năm 2009, “cuộc đại suy thoái” đã thu hẹp nền kinh tế thế giới chỉ 0.1%.
Đại dịch Covid-19 đã gây ra những dư chấn vô cùng khủng khiếp. Tại đỉnh điểm của tỷ lệ thất nghiệp vào tháng 4, tỷ lệ người Mỹ từ 25 đến 54 tuổi đi làm đã giảm xuống dưới 70%, lần đầu tiên sau gần 50 năm. Trong quý thứ hai, một phần sáu số người trẻ tuổi trên toàn thế giới bị mất việc làm. Tổ chức Lao động Quốc tế cho biết số giờ làm việc giảm gần một phần tư so với thời gian thời kỳ trước. Vào tháng 6, Ngân hàng Thế giới dự báo rằng các tổng sản lượng của các nền kinh tế có thu nhập thấp và trung bình sẽ thu hẹp lần đầu tiên trong năm nay, điều chưa từng xuất hiện trong ít nhất 60 năm qua, và 89 triệu người sẽ bị đẩy vào cảnh nghèo cùng cực, một mức tăng tới 15%. Ảnh hưởng của việc đóng cửa các trường học trong nhiều tháng có thể sẽ tồn tại trong nhiều thập kỷ. Và các đợt cách ly trên diện rộng đã làm tổn hại đến sức khỏe tâm thần: hơn 10% người Mỹ được khảo sát nói rằng họ đã cân nhắc nghiêm túc đến việc tự sát.
Khi Trung Quốc đóng cửa Vũ Hán vào tháng giêng, đây được coi là điều mà chỉ một chính phủ độc tài, với những công nghệ phức tạp mới có thể làm được. Trong một thời gian, các nhà khoa học của Anh đã không xem xét việc kêu gọi đóng cửa vì họ cho rằng điều đó là không khả thi về mặt chính trị. Tuy nhiên, ngay cả sự sẵn sàng đóng cửa nền kinh tế sau đó của hầu hết các chính phủ cũng chỉ là một trong nhiều điều bất ngờ. Trong thế giới giàu có, covid-19 đã dẫn đến những can thiệp chưa từng có của chính phủ vào thị trường lao động và thị trường vốn. Tại 5 nền kinh tế lớn nhất châu Âu, hơn 40 triệu công nhân đã được đưa vào các chương trình nghỉ phép tạm thời dưới sự hỗ trợ từ những khoản trợ cấp của chính phủ. Trong khi đó, Mỹ tăng cường trợ cấp thất nghiệp đến mức tới 2/3 số người yêu cầu bồi thường nhận được mức hỗ trợ vượt quá mức lương trước đó của họ. Cùng với đó, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) thực hiện vai trò như 1 trụ đỡ, hỗ trợ cho thị trường nợ doanh nghiệp Mỹ; trong khi Đức đã đưa ra cam kết bảo lãnh đối với các khoản vay của các doanh nghiệp nước này, với quy mô lên tới 25% GDP.
Dĩ nhiên, chẳng có bất cứ sự can thiệp nào không để lại hậu quả khi tỷ lệ nợ công đang tăng vọt. Vào tháng 6, IMF dự báo rằng tổng tỷ lệ tổng nợ công trên GDP của các nền kinh tế phát triển sẽ tăng từ 105% vào năm 2019 lên 132% vào năm 2021. Gánh nặng nợ gia tăng đã thúc đẩy một hoạt động can thiệp tài chính mới. Bảng cân đối của các ngân hàng trung ương đã liên tục phình to khi họ tạo ra hàng nghìn tỷ đô la để bù đắp nợ chính phủ, trong khi Liên minh châu Âu, lần đâu tiên trong lịch sử đang đồng phát hành các khoản nợ với quy mô khổng lồ nhằm chi trả cho quỹ phục hồi của mình. Các chính sách của một thập kỷ trước, sau cuộc khủng hoảng tài chính, được coi là cấp tiến vào thời điểm đó nhưng trông quá đỗi tầm thường nhạt nhẽo khi so sánh với những gì đang được áp dụng hiện nay.
Ban đầu, các biện pháp can thiệp được kỳ vọng sẽ chỉ diễn ra trong ngắn hạn. "Những gì chúng tôi đang cố gắng làm là đóng băng nền kinh tế", Peter Hummelgaard, bộ trưởng việc làm Đan Mạch, cho biết vào tháng 3. (Đan Mạch có thể tuyên bố đã truyền cảm hứng cho các kế hoạch nghỉ việc tạm thời khác). Kinh nghiệm cho thấy các nền kinh tế giàu có trên thế giới có thể bắt nhịp trở lại nhanh chóng sau một thảm họa. Sau khi cơn bão Katrina tàn phá New Orleans vào tháng 8 năm 2005, tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt từ khoảng 6% lên hơn 15%, nhưng nó đã giảm trở lại dưới 6% vào tháng 2 năm 2006. Cuộc suy thoái hiện nay có thể nói là cuộc suy thoái khủng khiếp nhất được ghi nhận ở nhiều quốc gia, nhưng đồng thời dường như cũng sẽ là một trong những cuộc khủng hoảng ngắn nhất. Việc tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ giảm gần đây có vẻ đang cho thấy điều tồi tệ nhất của cuộc khủng hoảng đã trôi qua 1 cách nhanh chóng.
Tuy nhiên, không giống như tình huống sau một cơn bão, không có việc chạy trốn đến những khu vực kinh tế tốt hơn. Cũng giống như sau cuộc khủng hoảng tài chính, cuộc suy thoái này đáng chú ý về bề rộng cũng như độ sâu của nó. Và cũng phải kể đến việc đại dịch covid-19 vẫn đang tiếp tục lan rộng. Khi báo cáo này được viết, mức trung bình động bảy ngày của số các ca nhiễm bệnh toàn cầu đạt mức cao mới. Mỹ và Úc đã trải qua hai làn sóng đại dịch, trong khi Pháp, Tây Ban Nha và Anh mới đang chuẩn bị cho một làn sóng thứ hai, còn số ca nhiễm bệnh tại Ấn Độ vẫn đang trên đà đi lên; và cũng không ai biết chắc covid-19 có sức lây lan như thế nào tại những quốc gia nghèo hơn. Mặc dù thế giới đặt hy vọng rất cao đối với sự xuất hiện một loại vắc-xin vào năm 2021, nhưng tính an toàn và hiệu quả của nó vẫn còn bị đặt rất nhiều dấu hỏi. Có thể nói, không loại trừ viễn cảnh nền kinh tế toàn cầu phải hoạt động dưới gánh nặng của sự giãn cách xã hội trong nhiều năm tới.
Sự tăng tốc của những thay đổi lâu dài
Có thể thấy sự thật ngày càng rõ ràng hơn rằng nhiều thay đổi do covid-19 mang lại sẽ mang tính lâu dài. Báo cáo đặc biệt này lập luận rằng đại dịch sẽ củng cố cho các điều kiện đã và đang tác động lên nền kinh tế thế giới, thúc đẩy những thay đổi trong thương mại, công nghệ, tài chính và chính sách kinh tế.
Các điều kiện trước đại dịch đã được tạo ra bởi ba cú sốc kinh tế lớn nhất của thế kỷ 21: sự hội nhập của Trung Quốc vào hệ thống thương mại thế giới, cuộc khủng hoảng tài chính và sự trỗi dậy của nền kinh tế kỹ thuật số. Khi công nhân Trung Quốc rời bỏ sự đói nghèo ở vùng nông thôn để đến các nhà máy, hàng hóa giá rẻ chảy về phía Tây và đồng thời tài sản tài chính chảy ngược lại về phía Đông, giúp tạo ra môi trường lạm phát thấp, lãi suất thấp, cũng như tình trạng mất việc hàng loạt trong ngành sản xuất tại các quốc gia giàu có. Cuộc khủng hoảng tài chính gây ra sự suy giảm về nhu cầu, đồng thời làm giảm lãi suất ngay cả khi toàn cầu hóa bị đình trệ. Trong khi đó, sự trỗi dậy của công nghệ góp phần làm suy giảm tính cạnh tranh, tạo ra những khoản lợi nhuận doanh nghiệp kếch xù và giảm tỷ trọng thu nhập quốc dân phân bổ cho người lao động khi các siêu tập đoàn gặt hái được thành quả từ hiệu ứng mạng và độc quyền tự nhiên.
Đại dịch covid-19 chính là cú sốc lớn thứ tư. Sự sụp đổ của nhu cầu trầm trọng hơn nhiều so với thời kỳ hậu cuộc khủng hoảng tài chính. Mức tiết kiệm có thể được duy trì trong nhiều năm. Ngoài ra, môi trường lãi suất thấp và thậm chí âm có nhiều khả năng sẽ kéo dài. Điều này sẽ thúc đẩy giá tài sản ngay cả khi các nền kinh tế suy yếu. Thêm vào đó, đại dịch Covid-19 cũng giúp các doanh nghiệp đã nhận thức rõ hơn về rủi ro của các chuỗi cung ứng vừa rời rạc vừa mong manh, do đó làm gia tăng mong muốn đưa chuỗi cung ứng trở lại gần quê nhà hơn, cũng như đa dạng hóa các nhà cung cấp. Đại dịch cũng đang góp phần đẩy nhanh quá trình số hóa. Sự chuyển đổi trong thói quen người tiêu dùng từ bán lẻ tại chỗ sang thương mại điện tử đã diễn ra nhanh chóng và họ cũng đã dần quen với việc sử dụng một số dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục trực tuyến.
Giá cổ phiếu của những gã khổng lồ công nghệ đã tăng vọt. Ngay cả sau khi sụt giảm vào tháng 9, các cổ phiếu nhóm “FANG+” được niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán New York đã tạo ra mức lợi nhuận khoảng 60% cho các nhà đầu tư may mắn nắm giữ chúng từ đầu năm. Các công ty đã thích nghi với yêu cầu làm việc từ xa với tốc độ đáng kinh ngạc, đồng thời đẩy mạnh đầu tư vào các công nghệ hỗ trợ sự hiện diện từ xa.
Đại dịch sẽ đánh dấu một bước ngoặt về chính trị, địa chính trị cũng như kinh tế. Từ năm 2020, thế giới sẽ bước vào một kỷ nguyên cạnh tranh khốc liệt hơn giữa các cường quốc. Sự lây lan của covid-19 đã trùng hợp và ở một mức độ nào đó làm trầm trọng thêm, leo thang căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ. Mối quan hệ giữa 2 gã khổng lồ đã trở nên tồi tệ hơn cả những người quan sát diều hâu nhất dự đoán vài năm trước. Các tranh chấp thương mại, với trọng tâm kỳ lạ là thâm hụt thương mại và các thỏa thuận mua đậu nành, hiện là một phần của một cuộc chiến rộng lớn hơn. Mỹ đã vận động thế giới từ chối công nghệ 5g của Trung Quốc, tăng cường giám sát các nhà đầu tư nước ngoài, áp đặt các lệnh trừng phạt để hạn chế quyền tiếp cận của Trung Quốc với công nghệ bán dẫn của họ và đang buộc TikTok, nhà xuất khẩu công nghệ tiêu dùng thành công nhất của Trung Quốc, phải bán mình. Mức đầu tư của Trung Quốc vào Mỹ đã sụp đổ. Ngoài ra, cả hai quốc gia cũng đang tìm các đa dạng hóa đối tác trong thương mại toàn cầu. Hiển nhiên, hai nền kinh tế đã quá tích hợp để có thể tách rời nhau hoàn toàn, nhưng giờ đây họ kết hợp các mối quan hệ kinh tế sâu rộng với sự những sự ngờ vực, e dè lẫn nhau.
Đối với nền chính trị ở thế giới giàu có, đại dịch thể hiện một thách thức đối với giới cầm quyền. Không giống như khủng hoảng tài chính, đây không phải là lỗi của Phố Wall. Nhưng nền kinh tế yếu kém kèm theo giá tài sản cao do lãi suất thấp có thể gây ra sự giận dữ của công chúng, đặc biệt nếu nó diễn ra đồng thời với tình trạng thất nghiệp tập trung ở những người lao động được trả lương thấp trong khu vực dịch vụ. Lãi suất thấp sẽ làm kéo dài đáng kể các khoản chi tiêu thâm hụt. Cách thức đương đầu với các cuộc suy thoái sẽ thay đổi, một phần là do chính sách lãi suất gần bằng không đã gần như làm vô hiệu hóa các chính sách tiền tệ, mặt khác cũng bắt nguồn từ các thử nghiệm trong năm nay với việc hỗ trợ trực tiếp tiền mặt cho các hộ gia đình trên quy mô lớn. Sẽ có cả mong muốn và điều kiện thúc đẩy việc viết lại khế ước xã hội theo những cách mà nhiều người hy vọng có thể xảy ra sau toàn cầu hóa và khủng hoảng tài chính. Câu hỏi sẽ là liệu nền chính trị ngày nay có đủ sức thực hiện hay không; hoặc liệu nó có lại chấp nhận chuyển dịch sự bất mãn trong xã hội thành một làn sóng chủ nghĩa dân túy lạc hậu khác hay không.
Những thay đổi nào là cần thiết phụ thuộc vào sự hiểu biết về mức độ thay đổi cơ cấu kinh tế mà đại dịch có thể mang lại. Câu chuyện bắt đầu từ thương mại.