80 năm sau sự hình thành của hệ thống tiền tệ Bretton Woods (Phần 1)
Tuấn Hưng
Junior Analyst
Ngày này 80 năm trước, đại diện của 44 quốc gia đã cùng nhau đến Bretton Woods, New Hampshire để điều chỉnh trật tự kinh tế quốc tế thời kỳ hậu chiến. Có nhiều những quyết định định hồi đó đã không còn nữa như việc giữ cố định tỷ giá hối đoái đã trở nên lỗi thời vào đầu những năm 1970, và các tổ chức Bretton Woods đã trở nên ít quan trọng hơn. Điều này đã cho thấy sự tiến và những cải cách nhưng đồng thời cũng làm dấy lên những lo ngại.
Ngày này 80 năm trước, Chiến dịch Overlord, cuộc đổ bộ của quân Đồng minh vào miền bắc nước Pháp, đang ở trong tình thế nguy hiểm. Không có gì chắc chắn rằng Lực lượng Viễn chinh Đồng minh có thể giữ vững đầu cầu của mình trên lục địa Châu Âu.
Chúng ta cần ghi nhớ tình huống này nếu muốn hiểu tầm nhìn xa cần thiết để triệu tập các phái đoàn từ 44 quốc gia tại khách sạn Mount Washington ở Bretton Woods, New Hampshire vào ngày 1 tháng 7 năm 1944, nhằm giải quyết trật tự kinh tế thế giới sau chiến tranh:
Hệ thống tiền tệ quốc tế, với đồng USD được gắn với vàng và tỷ giá hối đoái cố định của các loại tiền tệ khác
Các tổ chức kinh tế quốc tế: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế (World Bank).
Không đạt được thỏa thuận nào về tổ chức thương mại quốc tế tại Bretton Woods. Sau đó, tại Hội nghị Havana năm 1947, Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) đã được thông qua và từ đó Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) ra đời vào năm 1994. Do đó, đây dường như không phải là kết quả trực tiếp của Bretton Woods, mà chỉ IMF và World Bank nhìn chung có thể được coi như là tổ chức Bretton Woods.
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods cho đến ngày nay: tỷ giá hối đoái cố định hay thả nổi?
Động lực của việc neo tỷ giá hối đoái được thỏa thuận tại Bretton Woods là kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu những năm 1930. Vào thời điểm đó, mọi quốc gia đều muốn làm suy yếu đồng tiền của mình để đạt được lợi thế về giá trong ngoại thương và từ đó củng cố nền kinh tế nội địa trong khi gây thiệt hại cho các nước khác (chính sách ăn xin hàng xóm). Kết quả là một cuộc đua phá giá mang tính hủy diệt. Bretton Woods là một nỗ lực nhằm ngăn chặn sự lặp lại của cuộc đua phá giá như vậy.
Và đó chính là lời giải cho một vấn đề khác: ngoài Mỹ, hiếm có quốc gia nào còn dự trữ vàng sau những năm dài chiến tranh sau khi phải mua vũ khí, lương thực, v.v. từ Mỹ. Giải pháp cho vấn đề này được quyết định tại Bretton Woods theo sự nhấn mạnh của phái đoàn Hoa Kỳ là “vàng dự trữ”: Hoa Kỳ bảo đảm cho các ngân hàng trung ương nước ngoài trong hệ thống Bretton Woods 1/35 ounce vàng ròng cho mỗi USD dự trữ họ đưa ra tới Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York.
Miễn là mọi người tin rằng Hoa Kỳ sẽ đáp ứng các nghĩa vụ trao đổi này, thì phần còn lại của thế giới chỉ cần giữ USD làm dự trữ là đủ và không cần vàng bên ngoài nước Mỹ. Đồng thời, giá trị của mỗi đồng nội tệ có thể được ổn định bằng cách thiết lập một tỷ giá hối đoái cố định so với đồng USD. Ví dụ. 3.33 Deutsche Mark mỗi USD (từ những năm 1950).
Hệ thống đẹp đẽ này sụp đổ khi (1) tài khoản vãng lai của Mỹ rơi vào vị trí thâm hụt đáng kể, tức là nền kinh tế Mỹ trở nên nợ nần ở nước ngoài, và (2) Mỹ theo đuổi chính sách tiền tệ khiến cho lạm phát tăng cao. Chính phủ Mỹ không còn đủ dự trữ vàng để thực hiện các cam kết trao đổi đã hứa. Khi các ngân hàng trung ương nước ngoài đầu tiên bắt đầu yêu cầu vàng (đặc biệt là Banque de France và Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ), Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã ngừng việc trao đổi USD lấy vàng vào ngày 15 tháng 8 năm 1971 (gọi là "Cú sốc Nixon"). Đây là một vụ vỡ nợ thực tế của Mỹ đối với nghĩa vụ trao đổi USD lấy vàng.
Điều này có nghĩa là các loại tiền tệ khác không còn có thể neo vào USD. Hệ thống tỷ giá cố định tan rã. Cuối cùng, từ tháng 4 năm 1973, tỷ giá hối đoái phần lớn được để lại cho các lực lượng thị trường. Phần tỷ giá hối đoái của hệ thống Bretton Woods đã sụp đổ.
Sau khi chế độ tỷ giá hối đoái cố định kết thúc
Sau đó, có những biến động tỷ giá hối đoái khó chịu, chẳng hạn như đồng đô la Reagan, đồng tiền Mỹ tăng giá hơn 50% (so với các đối tác thương mại phương Tây của Mỹ) trong nửa đầu thập niên 1980 và sự sụp đổ bạo của đồng USD trong những năm tiếp theo.
Và vẫn tiếp tục có những nỗ lực, kể cả sau năm 1973, nhằm kiểm soát những biến động tỷ giá hối đoái này. Hiệp định Plaza và Hiệp định Louvre của các nước G6 và G7 năm 1985 và 1987 là một ví dụ. “Điều phối chính sách quốc tế” là từ thông dụng lớn vào thời điểm đó. Ý tưởng là nếu các nước công nghiệp phát triển hàng đầu phương Tây phối hợp các chính sách tiền tệ, kinh tế và tài chính của họ thì biến động tỷ giá hối đoái sẽ giảm bớt.
Cách tiếp cận này bị mất uy tín bởi thực tế là sự phối hợp chính sách như vậy hiếm khi mang lại lợi ích cho tất cả mọi người tham gia. Một số nền kinh tế thường phải trả giá đắt cho nỗ lực phối hợp của mình. Ví dụ, một số nhà quan sát cho rằng sự suy thoái kinh tế của Nhật Bản bắt đầu từ đầu những năm 1990 là kết quả của sự phối hợp chính sách trong những năm 1980 đã khiến Nhật Bản rơi vào thế bất lợi.
Việc quản lý tỷ giá hối đoái này đặc biệt gay gắt ở EU. Các nhà hoạt động chính trị vào thời điểm đó tin rằng tỷ giá hối đoái biến động sẽ khiến thương mại quốc tế trở nên khó khăn hơn nhiều. Một số điều đã được thử, nhưng không có gì hiệu quả. Một hệ thống tỷ giá hối đoái thay thế hệ thống kia: “con rắn tiền tệ”, “con rắn trong đường hầm”, EMS. Hết lần này đến lần khác, các quốc gia phải rời bỏ, tái gia nhập ở mức ngang giá mới hoặc điều chỉnh mức ngang giá của mình.
Những giai đoạn như vậy thường chứa đầy khủng hoảng. Những người chơi từng trông cậy vào lời hứa của các chính trị gia bỗng nhiên phải đối mặt với những biến động tỷ giá mà họ không lường trước được. Điều này có thể đặt người này hay người kia vào tình thế khó khăn. Nói tóm lại, hệ thống tỷ giá hối đoái đã đạt được kết quả hoàn toàn trái ngược với những gì các chính trị gia dự định: chúng làm tăng rủi ro tỷ giá và cản trở thương mại quốc tế cũng như các dòng vốn quốc tế.
Ngày nay, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng chỉ có hai giải pháp cực đoan có hiệu quả: thả nổi tự do hoặc ấn định tỷ giá hối đoái không thể đảo ngược, ít nhất là dưới hình thức tiền tệ, hoặc thậm chí tốt hơn là một liên minh tiền tệ. Tùy chọn thứ hai được chọn tại EU (với các ngoại lệ) là thả nổi tự do.
Phát hiện thú vị là tỷ giá hối đoái tự do biến động thực tế không biến động nhiều như tỷ giá hối đoái được điều chỉnh bằng sự phối hợp. Sự can thiệp vào thị trường ngoại hối tạo ra nhiều biến động hơn (và trên hết: khó chịu hơn) so với một thị trường không bị ảnh hưởng.
Và chúng không phải là tiêu chí loại trực tiếp cho thương mại quốc tế. Tại EU, chúng tôi thấy rằng các quốc gia đã giữ lại đồng tiền của mình giao dịch rất nhiều với khu vực đồng euro và các quốc gia EU ngoài đồng euro khác. Rõ ràng, việc bãi bỏ thuế quan và những khác biệt về quy định quan trọng hơn nhiều so với việc ấn định tỷ giá hối đoái!
Phải nói rằng mọi nỗ lực chính trị trong thời kỳ hậu chiến tranh nhằm giảm bớt biến động tỷ giá hối đoái là thừa thãi và phần lớn thậm chí còn phản tác dụng.
Commerzbank Research