80 năm sau sự hình thành của hệ thống tiền tệ Bretton Woods (Phần 2)

80 năm sau sự hình thành của hệ thống tiền tệ Bretton Woods (Phần 2)

Tuấn Hưng

Tuấn Hưng

Junior Analyst

15:08 11/07/2024

80 năm trước, đại diện của 44 quốc gia đã cùng nhau đến Bretton Woods, New Hampshire để điều chỉnh trật tự kinh tế quốc tế thời kỳ hậu chiến. Có nhiều những quyết định định hồi đó đã không còn nữa như việc giữ cố định tỷ giá hối đoái đã trở nên lỗi thời vào đầu những năm 1970, và các tổ chức Bretton Woods đã trở nên ít quan trọng hơn. Điều này đã cho thấy sự tiến và những cải cách nhưng đồng thời cũng làm dấy lên những lo ngại.

Sự nguy hiểm của việc phá giá đồng nội tệ

Tất nhiên, trong một thế giới thả nổi tự do, mối nguy hiểm mà những người khai sinh ra hệ thống Bretton Woods vẫn tồn tại: Cuộc chiến phá giá đồng nội tệ. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi nỗi sợ hãi về điều này thỉnh thoảng xuất hiện trở lại, ví dụ: sau cuộc Đại suy thoái năm 2008.

Cho đến nay, những diễn biến như vậy luôn được ngăn chặn bởi sự đồng thuận giữa các ngân hàng trung ương G7 và các bộ tài chính vào những thời điểm nhạy cảm (chẳng hạn như năm 2013 hoặc 2018) rằng họ sẽ không làm ảnh hưởng đến chính sách thả nổi tự do. Tuy nhiên, sự đồng thuận này rất mong manh và thường gặp rủi ro. Các NHTW trong nhóm G7 đã thừa nhận rằng trong những trường hợp bất thường, khi thị trường không còn đi theo sự điều tiết, sự can thiệp nên được diễn ra. Ngoại lệ này chắc chắn là cần thiết, nhưng đồng thời nó cũng là cửa ngõ cho sự lạm dụng.

Người ta thường có ấn tượng rằng chính phủ Nhật Bản muốn can thiệp mỗi khi tỷ giá hối đoái JPY không phù hợp với họ. Khi nhắc đến sự mất giá của JPY, họ thường gặp phải sự phản đối từ các nước G7 khác. Tuy nhiên, lực cản này không còn tồn tại khi đồng JPY tăng giá do những can thiệp được đến từ chính phủ. Ví dụ, vào cuối tháng 4/đầu tháng 5, Bộ Tài chính Nhật Bản đã bán USD trên quy mô lớn và rút đồng JPY khỏi thị trường nhưng không gặp sự phản đối nào từ các nước G7 khác.

Người ta có thể hiểu được tại sao các NHTW G7 lại không có hành động gì trong trường hợp này, vì Nhật Bản không đạt được bất kỳ lợi thế kinh tế nào khi làm như vậy. Nhưng tôi lo ngại rằng những tình tiết như vậy có thể làm xói mòn sự đồng thuận của G7 và việc thả nổi tự do sẽ khó bảo vệ hơn trong tương lai khi nói đến các cuộc đua phá giá. Bởi Nhật Bản có thể tạo ra một tiền lệ xấu cho các quốc gia khác trong việc can thiệp lên tỷ giá ngoại hối thả nổi.

Có lẽ nỗi kinh hoàng về cuộc đua phá giá đã lắng xuống sau gần một thế kỷ, nhưng mối nguy hiểm vẫn còn. Hiện tại thì chưa, nhưng dường như chắc chắn rằng những mối nguy như vậy sẽ quay trở lại - như chúng đã từng xảy ra thường xuyên trong quá khứ.

Tổ chức Bretton Woods: Sự kết thúc của chủ nghĩa đa phương?

Năm 1944 khi mà nền kinh tế thời chiến của Mỹ đang chạy hết tốc lực, tổng sản lượng công nghiệp của nền kinh tế Mỹ cao hơn tổng sản lượng của phần còn lại của thế giới cộng lại. Nói tóm lại, những người tham gia Hội nghị Bretton Woods đều hiểu rõ rằng Hoa Kỳ sẽ là nền kinh tế thống trị trong thời kỳ hậu chiến.

Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ quyết tâm tránh những sai lầm đã mắc phải sau Thế chiến thứ nhất. Những sai lầm này bao gồm việc Hoa Kỳ đã không tham gia Hội Quốc Liên và do đó đã thất bại. Vì vậy, lần này, chính sách đối ngoại của Mỹ hoàn toàn hướng tới chủ nghĩa đa phương. Do đó, việc thiết kế các tổ chức Bretton Woods tuân theo các nguyên tắc sau:

Thay vì các hiệp định song phương trong đó Hoa Kỳ có thể phát huy quyền lực tối cao của mình, mục đích là để tạo ra một hệ thống dựa trên luật lệ trong đó các quốc gia được đối xử bình đẳng (“nguyên tắc không thể chia cắt”). Trong hệ thống GATT, điều này đạt được thông qua các điều khoản tối huệ quốc: lợi thế thương mại dành cho một quốc gia phải được trao cho tất cả các nước.

Thay vì những hành động mang tính ăn miếng trả miếng, thay vì cân bằng lợi ích trực tiếp, chủ nghĩa đa phương thời hậu chiến dựa trên một nguyên tắc mà khoa học chính trị gọi là “có đi có lại”: trật tự dựa trên quy tắc đảm bảo rằng các ưu thế và bất lợi được cân bằng dần theo thời gian và hệ thống được các bên tham gia coi là công bằng.

Khác với các hệ thống song phương, nơi bên mạnh hơn thắng trong các xung đột, trong các hệ thống đa phương, các xung đột được giải quyết thông qua các cơ chế giải quyết xung đột đã được thể chế hóa, ví dụ như trong hệ thống GATT/WTO bằng cách sử dụng một hệ thống giải quyết tranh chấp tinh vi.

Tuy nhiên, kết quả không phải lúc nào cũng tối ưu. Ví dụ, sự phân bổ quyền bỏ phiếu trong IMF luôn là một vấn đề tranh cãi: sự điều chỉnh diễn ra chậm, khiến các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc thường bị đại diện không đầy đủ, trong khi Mỹ và các nước công nghiệp phương Tây khác đảm bảo được quyền lực của mình.

Và nhiều quốc gia đi vay của WorldBank hay IMF dường như phải chịu những điều kiện quá nghiêm ngặt. Có thể lập luận rằng những điều kiện này là cần thiết vì chính các điều kiện cho vay, chứ không phải là tiền của IMF, đã quyết định việc quản lý khủng hoảng trong hầu hết các trường hợp. Tuy nhiên, sự tín nhiệm bị ảnh hưởng nếu nguyên tắc đối xử bình đẳng bị mất đi trong quá trình này.

Đặc biệt, người ta thường nhận thấy sự không công bằng khi IMF xử lý một quốc gia EU khác với các quốc gia đi vay thuộc Thế giới thứ ba: Trong cuộc khủng hoảng Hy Lạp, IMF đã chứng nhận khả năng trả nợ của Hy Lạp dưới những hoàn cảnh đáng ngờ, mặc dù điều này rõ ràng là không hợp lý, nó đã giúp hỗ trợ cho các quốc gia khu vực đồng tiền chung Euro, những quốc gia sẽ không thể cứu Hy Lạp nếu không có sự tham gia của IMF. Tuy nhiên, sự tín nhiệm của IMF đã bị tổn hại vĩnh viễn kể từ đó.

Tất cả những điều này làm suy yếu hệ thống của các tổ chức đa phương Bretton Woods. Vấn đề lớn nhất của họ, tất nhiên, là một vấn đề khác: Hoa Kỳ ngày càng từ bỏ nguyên tắc đa phương. Và không chỉ kể từ khi nhiệm kỳ tổng thống Trump 2016/20. Với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ ngày càng tập trung vào các mối quan hệ song phương và nói lời tạm biệt với chủ nghĩa đa phương. Việc trì hoãn đóng góp vào ngân sách Liên Hợp Quốc, rút ​​khỏi Nghị định thư Kyoto, không công nhận Tòa án Hình sự Quốc tế, v.v.: Tất cả những điều này đã xảy ra từ lâu trước Trump. Kết quả của cuộc bầu cử sắp tới ở Hoa Kỳ có thể ảnh hưởng đến tốc độ mà chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ chuyển khỏi chủ nghĩa đa phương. Tuy nhiên, hướng đi có khả năng không phụ thuộc vào kết quả bầu cử.

Tất cả những điều này không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho tương lai của các tổ chức Bretton Woods. WTO sẽ đặc biệt bị đe dọa rơi vào tình trạng không quan trọng. Cả Hoa Kỳ và EU đều ngày càng dựa vào các hiệp định thương mại song phương mà bỏ qua WTO. Và các cuộc xung đột thương mại của chính quyền Trump đã làm rõ rằng WTO không còn bất kỳ hiệu lực nào.

Các nền kinh tế cỡ trung bình đặc biệt có thể sẽ chịu thiệt hại từ sự kết thúc của chủ nghĩa đa phương dựa trên quy tắc. Để minh họa, trong một cuộc xung đột thương mại với Hoa Kỳ, EU có thể đưa ra khối lượng thương mại đáng kể lên bàn đàm phán có liên quan đến nền kinh tế Hoa Kỳ. Điều này làm cho Brexit càng trở nên gây tổn hại hơn đối với Vương quốc Anh, quốc gia hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của Hoa Kỳ trong các cuộc đàm phán thương mại. Không có quy tắc WTO, sẽ rất khó khăn cho các quốc gia như vậy.

Kết luận

Công bằng mà nói thì Bretton Woods chẳng còn lại bao nhiêu. Hệ thống tỷ giá hối đoái cố định đã thất bại vào đầu những năm 1970, và các tổ chức Bretton Woods - mặc dù vẫn tiếp tục tồn tại - đang mất dần tầm quan trọng của mình. Mặc dù bạn có thể làm tốt với tỷ giá hối đoái thả nổi do thị trường đặt ra chứ không phải do chính phủ đặt ra, tôi không chắc bạn có thể làm tốt như vậy nếu không có các tổ chức Bretton Woods mạnh. Đặc biệt nếu không có quy định trong thương mại thế giới, các nền kinh tế vừa và nhỏ có thể gặp khó trước các nước lớn. Và bất chấp tất cả những thiếu sót của IMF và WorldBank, dường như họ đưa ra những cơ chế tốt hơn so với các tổ chức cạnh tranh đang hành động rõ ràng với động cơ chính trị ẩn sâu.

Commerzbank Research

Broker listing

Thư mục bài viết

Cùng chuyên mục

Trump 2.0: Điều gì đang chờ đợi Đông Nam Á?
Thái Linh

Thái Linh

Junior Editor

Trump 2.0: Điều gì đang chờ đợi Đông Nam Á?

Đông Nam Á có thể sẽ không phải là ưu tiên trong chương trình nghị sự đối ngoại của ông Trump, nhưng khu vực này cần phải có chiến lược đối phó với các lập trường về thương mại và an ninh của Tổng thống đắc cử, cũng như cách tiếp cận mang tính giao dịch của ông.
Nhịp đập kinh tế Trung Quốc: Con đường phục hồi chông gai và những thách thức còn bỏ ngỏ
Ngọc Lan

Ngọc Lan

Junior Editor

Nhịp đập kinh tế Trung Quốc: Con đường phục hồi chông gai và những thách thức còn bỏ ngỏ

Báo cáo kinh tế vĩ mô tháng 10 của Trung Quốc cho thấy bức tranh tương đối phức tạp. Điểm sáng đến từ tăng trưởng doanh số bán lẻ vượt kỳ vọng, trong khi đó sản xuất công nghiệp và đầu tư bất động sản lại có dấu hiệu chậm lại. Đáng chú ý, tốc độ tăng trưởng đầu tư tài sản cố định (tính từ đầu năm) duy trì ổn định so với tháng trước.
Kinh tế Châu Âu tăng trưởng chậm lại, ECB tiếp tục cắt giảm lãi suất
Thái Linh

Thái Linh

Junior Editor

Kinh tế Châu Âu tăng trưởng chậm lại, ECB tiếp tục cắt giảm lãi suất

Chỉ số PMI, một chỉ báo kinh tế quan trọng của khu vực eurozone, đang tiến gần ngưỡng suy thoái trong tháng thứ hai liên tiếp. Do đó, chúng tôi đã hạ dự báo tăng trưởng cho nửa cuối mùa đông. Thêm vào đó, do lạm phát có khả năng giảm nhờ giá năng lượng thấp hơn, chúng tôi dự kiến ECB sẽ có thêm 5 đợt cắt giảm lãi suất (lãi suất tiền gửi giữa năm 2025: 2.0%). Trong khi đó, kinh tế Mỹ vẫn duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ.
Donald Trump là tâm điểm trong Hội nghị Thượng đỉnh Doanh nghiệp APEC tuần qua
Kiều Hồng Minh

Kiều Hồng Minh

Junior Analyst

Donald Trump là tâm điểm trong Hội nghị Thượng đỉnh Doanh nghiệp APEC tuần qua

Donald Trump đang ở cách đó 4,345 km tại Palm Beach, Florida, nhưng sự trở lại của ông vào Nhà Trắng và các chính sách mà chính quyền của ông sẽ thực hiện đã lan tỏa khắp Hội nghị thượng đỉnh Doanh nghiệp APEC, nơi quy tụ một số tên tuổi lớn nhất trong giới chính trị và kinh doanh.
Forex Forecast - Diễn đàn dự báo tiền tệ