JPMorgan Research: Phân hóa kinh tế vĩ mô và chu kỳ nới lỏng toàn cầu
Như Quỳnh
Junior Analyst
Nhận định của JPMorgan New York.
Khi lãi suất vẫn đang ở mức cao tại phần lớn các quốc gia và lạm phát đã giảm đáng kể so với mức đỉnh nhiều thập kỷ vào năm 2023, thế giới đang dần bước vào một chu kỳ nới lỏng chính sách tiền tệ đồng bộ nhất từ trước đến nay, ngoại trừ thời kỳ suy thoái. Tuy nhiên, tốc độ và quy mô của chu kỳ nới lỏng toàn cầu đang bị thách thức bởi mức lạm phát vẫn cao và áp lực từ thị trường lao động vẫn còn căng thẳng. Những trở ngại này còn tăng thêm bởi cuộc bầu cử tổng thống Mỹ gần đây, trong đó ứng cử viên chiến thắng đã vận động tranh cử trên nền tảng các cuộc chiến thương mại và chính sách nhập cư gây tranh cãi, cùng với chính sách kích thích tài khóa lớn và không được tài trợ.
Bối cảnh vĩ mô hiện tại cho thấy nhiều rủi ro đối với kịch bản “Goldilocks”. Báo cáo Triển vọng Kinh tế Thế giới tháng 10 của IMF phản ánh sự lạc quan này, cho rằng các khó khăn toàn cầu sẽ dần giảm bớt. Trong khi các dự báo thừa nhận sự phân hóa về hiệu suất giữa các nền kinh tế, nhiều chuyên gia vẫn kỳ vọng áp lực cung ứng sẽ giảm dần và lạm phát sẽ tiến về mục tiêu 2% tại các nước phát triển, tạo điều kiện cho nới lỏng chính sách.
JPMorgan lại có góc nhìn thận trọng hơn về kịch bản hoàn hảo và tập trung vào các rủi ro từ sự chênh lệch dai dẳng giữa các khu vực và ngành. Trái ngược với những động lực toàn cầu đã chi phối chính sách trong bốn năm qua (từ đại dịch kéo theo hạ lãi suất mạnh mẽ đến các đứt gãy chuỗi cung ứng dẫn đến lạm phát tăng vọt), JPMorgan cho rằng chu kỳ nới lỏng sắp tới sẽ phân hóa hơn so với nhiều kỳ vọng.
Trong báo cáo này, JPMorgan cập nhật phân tích trước đó để đánh giá tình trạng hiện tại của chính sách tiền tệ so với sự phân kỳ ngày càng tăng trong hiệu suất kinh tế vĩ mô:
- Lạm phát vẫn còn quá cao. Dù có những biến động lên xuống, lạm phát lõi toàn cầu (trừ Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ) nhìn chung vẫn ở mức 3% như dự báo đầu năm, vượt quá mục tiêu của nhiều ngân hàng trung ương. Duy trì mức lãi suất cao là để kiềm chế lạm phát, và câu hỏi chính sắp tới là liệu lạm phát có tiếp tục giảm khi các “cú sốc toàn cầu” tan biến hay đã ăn sâu vào nền kinh tế. Trong khi đồng thuận nghiêng về hướng giảm, chúng tôi nhận thấy rủi ro vẫn còn ở mức cao.
- Sự chênh lệch đáng kể về lạm phát. Mặc dù lạm phát vẫn ở mức cao trung bình, nhưng có sự đa dạng rộng rãi về kết quả. Trong 29 nền kinh tế chính chúng tôi theo dõi, 14 nước có lạm phát cao hơn mục tiêu trên 0.5% tính đến quý III/2024, trong khi 9 nước có lạm phát dưới mục tiêu. Sáu quốc gia còn lại có lạm phát dao động trong khoảng 0.5% so với mục tiêu.
- Phân kỳ về khoảng cách sản lượng. Chênh lệch về khoảng cách sản lượng (GDP so với tiềm năng) cũng lớn không kém. Chúng tôi ước tính có 8 nền kinh tế có khoảng cách sản lượng dương trên 0.5%, tạo thêm áp lực lạm phát, trong khi 12 nước còn khoảng cách sản lượng âm trên 0.5%, giúp hạ áp lực lạm phát. Điều này để lại 9 nền kinh tế có khoảng cách sản lượng trong phạm vi 0.5% điểm của mức trung lập.
- Mâu thuẫn giữa lạm phát và khoảng cách sản lượng. Trong 29 nền kinh tế, chỉ có 7 nền kinh tế có cùng lúc lạm phát cao và khoảng cách sản lượng dương (như Mỹ, Anh, Brazil, Mexico, Canada) hoặc lạm phát thấp và khoảng cách sản lượng âm (như Trung Quốc đại lục, Đài Loan). 22 nền kinh tế còn lại phải cân nhắc giữa việc giữ ổn định giá cả với tình trạng khoảng trống kinh tế không nhất quán.
- Khó khăn trong đo lường khoảng cách sản lượng. Để tăng thêm độ phức tạp trong chính sách, việc đo lường khoảng cách sản lượng cũng gặp nhiều mâu thuẫn. Ví dụ, GDP khu vực Euro thấp hơn tiềm năng 1% nhưng tỷ lệ thất nghiệp lại thấp nhất trong nhiều thập kỷ. Với lạm phát giá và lương cao, nhưng còn dư địa trong lao động nhờ các chương trình giảm giờ làm, chúng tôi ước tính khoảng 9 nền kinh tế (bao gồm Mỹ, khu vực đồng Euro và Anh) có sự chênh lệch trong các thước đo này.
JPMorgan