Khi nào thì suy thoái xuất hiện nếu bạn đã tìm thấy tín hiệu về nó?
Nguyễn Thu Thủy
Junior Analyst
Toàn bộ ví dụ trong bài viết dưới đây đều được phát triển dựa trên lý luận/ lý thuyết của tác giả CME. Và do đó, những ví dụ sẽ mang tính chất tham khảo và không nên được sử dụng để làm luận điểm đầu tư.
Với quyết định dừng tăng lãi suất vào tháng 6 vừa qua, rất có thể Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đang tiến gần tới vùng đỉnh lãi suất quanh mức 5.125%. Fed đã khởi động chính sách tiền tệ thắt chặt bằng 10 phiên tăng khoảng 500 điểm lãi suất cơ bản từ tháng 3 năm ngoái. Đây được coi là động thái cứng rắn nhất kể từ năm 1981.
Vào đầu tháng 5, lợi suất trái phiếu kỳ hạn ngắn của Mỹ đều cao hơn khoảng 140 điểm cơ bản so với lợi suất trái phiếu kỳ hạn dài, tạo ra sự đảo ngược đường cong lợi suất nghiêm trọng nhất kể từ năm 1981 (Hình 1).
Hình 1: Hoa Kỳ có đường cong lợi suất đảo ngược dốc nhất kể từ năm 1981
Suy thoái kinh tế thường xảy ra từ một đến hai năm trước khi đường cong lợi suất đảo ngược (Hình 2). Do mức độ thắt chặt của Fed và mức độ đảo ngược đường cong lợi suất hiện tại, nhiều người đặt ra nghi vấn liệu Hoa Kỳ có đang tiến tới suy thoái hay không và nếu có thì khi nào sẽ bắt đầu. Ngoài ra, có những kỳ vọng rằng Hoa Kỳ sẽ thoát khỏi suy thoái và có thể "hạ cánh mềm", trong đó nền kinh tế tránh được suy thoái nhưng vẫn chậm lại đủ để lạm phát giảm, cũng như hy vọng rằng Fed sẽ nới lỏng chính sách tiền tệ.
Khả năng suy thoái xảy ra thay vì hạ cánh mềm có thể được suy ra từ dữ liệu lịch sử. Sáu chu kỳ thắt chặt trước đó đã được Fed thực hiện trong suốt 40 năm qua. Hai trong số đó đã hạ cánh mềm và bốn chu kỳ trong số đó đã trở thành cuộc suy thoái (Hình 3). Suy thoái đôi khi xảy ra, mặc dù chúng thường bắt đầu từ 10-17 tháng sau lần tăng lãi suất cuối cùng của Fed. Một cuộc suy thoái được Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia (NBER) mô tả là "sự suy giảm đáng kể trong hoạt động kinh tế". So với định nghĩa thường được sử dụng nhưng không chính xác về "hai quý liên tiếp tăng trưởng GDP âm", định nghĩa này phức tạp hơn.
Hình 2: Hình dạng đường cong lợi suất tương quan thuận với tăng trưởng GDP 3-8 quý trong tương lai
Hình 3: Lãi suất của Fed đạt đỉnh thường kéo theo suy thoái từ 10-17 tháng sau đó
Cuộc suy thoái ngắn nhưng với tốc độ rất nhanh bắt đầu vào tháng 2 năm 2020 là một trong những cuộc suy thoái được chỉ ra trong bảng trên. Chúng ta sẽ không bao giờ có thể nói liệu một cuộc suy thoái theo chu kỳ điển hình có xảy ra hay không nếu dịch COVID-19 không xảy ra, kèm theo đó là phản ứng của chính phủ đối với vấn đề này. Nếu không tính đến chu kỳ thắt chặt từ năm 2015 đến 2018, thì chỉ có 3 trong số 5 chu kỳ thắt chặt mà Fed trải qua dẫn đến suy thoái. Do đó, có thể có ít nhất 60% khả năng xảy ra suy thoái trong tương lai gần.
Tuy nhiên, có một số lý do để cho rằng nguy cơ suy thoái kinh tế có thể cao hơn nhiều. Đầu tiên, Fed đã tăng lãi suất 500 điểm cơ bản trong 14 tháng qua. Con số này lớn hơn nhiều so với bất kỳ chu kỳ thắt chặt nào trước đó kể từ năm 1981. Chu kỳ thắt chặt năm 1981, vốn là một phần của giai đoạn thắt chặt lâu hơn bắt đầu từ năm 1979, đã dẫn đến cuộc suy thoái sâu sắc nhất kể từ cuộc Đại khủng hoảng những năm 1930.
Mức độ nợ và đòn bẩy trong nền kinh tế Mỹ là yếu tố thứ hai có thể khiến nguy cơ suy thoái trong hai năm tới lên tới 60%. Các chu kỳ thắt chặt trong quá khứ diễn ra khi mức đòn bẩy thấp hơn đáng kể. Ví dụ, trong các chu kỳ thắt chặt năm 1979 và 1981, tổng tỷ lệ nợ trên GDP nằm trong khoảng từ 130 đến 35%. Khi chu kỳ thắt chặt bắt đầu vào năm 1984, tỷ lệ này đã lên tới 150%. Tỷ lệ này là 180% vào thời điểm kết thúc chu kỳ thắt chặt năm 1989. Khi Fed ngừng tăng lãi suất vào năm 2006, nợ đã tăng lên 217% GDP từ 185% vào thời điểm quỹ của Fed đạt mức cao vào tháng 5 năm 2000. Kể từ quý 3 năm 2022, quý gần đây nhất mà chúng tôi có dữ liệu, tổng tỷ lệ nợ trên GDP của Hoa Kỳ là 257.5%. Vì vậy, không chỉ quy mô của chu kỳ thắt chặt hiện tại của Fed đang áp đảo bất cứ điều gì mà họ đã thực hiện trong 40 năm qua, sự kết hợp giữa nợ công và khu vực tư nhân cũng lớn hơn nhiều so với các chu kỳ thắt chặt trước đây.
Hình 4: Mức nợ của Hoa Kỳ đã tăng đều đặn trong vài thập kỷ qua
Hiện tại, nền kinh tế Mỹ dường như vẫn đang trên đà phát triển tốt. Thu nhập hộ gia đình đang tăng mạnh. Mặc dù thị trường việc làm đang hạ nhiệt, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức thấp, tốc độ tăng trưởng việc làm vẫn khả quan và vẫn có gần 9.6 triệu vị trí trống tính đến cuối tháng Ba. Mặc dù vậy, vẫn có những dấu hiệu cảnh báo. Ba ngân hàng khu vực sụp đổ trong hai tháng qua. Nếu mức thắt chặt 500 điểm cơ bản của Fed làm chậm tăng trưởng hơn nữa, thì tỷ lệ vỡ nợ cuối cùng có thể tăng lên và các ngân hàng có thể hạn chế cho vay hơn nữa, tạo ra cơ hội xuất hiện một sự suy giảm đột ngột trong hoạt động kinh tế.
Hình 5: Fed có thể đã có nhiều thời gian hơn trong việc thiết kế hạ cánh mềm khi nợ thấp hơn
CME Group