Điều gì đã tạo nên cơn sốt vàng của các Ngân hàng Trung ương?
Nguyễn Ngọc Mai
Analyst
Vàng đang tái khẳng định tầm quan trọng của mình như một "hàng rào" chống lạm phát giữa những căng thẳng chính trị!
Năm 1968, sàn giao dịch vàng London Bullion Market đóng cửa trong 2 tuần. Nguyên nhân là do sàn giao dịch kim loại quý lớn nhất thế giới đã hết sạch vàng sau 5 tháng các Ngân hàng Trung Ương châu Âu điên cuồng tích trữ vàng sau khi Mỹ phá giá đồng USD. Cuộc khủng hoảng là bước đầu cho sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods – kể từ năm 1944, trong đó nhiều đồng tiền trên thế giới được neo vào USD còn USD lại được neo vào vàng.
Hiện nay, các ngân hàng trung ương đang “ráo riết” tích trữ vàng trở lại. Chỉ riêng trong quý thứ III, đã có 400 tấn vàng được chuyển vào các kho dự trữ. Tổng cộng từ tháng 1 đến tháng 9, nhóm các ngân hang này đã mua vào 670 tấn – mức cao chưa từng thấy kể từ sự kiện kể trên. Trong tháng 5, Thổ Nhĩ Kỳ mua gần 20 tấn chỉ trong 1 lần. Sức mua của Ấn Độ và Qatar cũng mạnh không kém. Hiện vàng đang chiếm khoảng 2/3 tổng dự trữ của Uzbekistan, trong khi chỉ vài tháng trước nước này lên kế hoạch giảm một nửa lượng vàng nắm giữ.
Điều này một phần là do vàng – vốn thường bị “lãng quên” khi thị trường yên bình ( vì nó gần như không sinh lời), đã lấy lại “ ánh hào quang” trong thời kỳ biến động và lạm phát cao như hiện nay. Về dài hạn, vàng vẫn được coi là tài sản lưu giữ giá trị. Bên cạnh đó, do không bị ràng buộc với bất kỳ nền kinh tế riêng lẻ nào, vàng dường như miễn nhiễm với khủng hoảng chính trị và tài chính quốc gia. Trong bối cảnh hiện nay, các Ngân hàng Trung Ương cho rằng họ đang mua được vàng với giá “ hời”. Dù đã có nhịp phục hồi gần đây, giá vàng đã giảm 3% kể từ đầu năm đến nay. Nhiều nhà đầu tư cũng đang đặt kỳ vọng giá sẽ sớm phục hồi.
Tuy nhiên, giống như trong quá khứ, mua những thỏi vàng cũng là 1 cách để tích trữ thêm USD. Lần này, bên tìm kiếm vàng không phải là châu Âu mà là các thị trường mới nổi đang chịu những tác động tiêu cực từ đà tăng giá mạnh mẽ của đồng USD. Các nước này cần USD để thanh toán hàng nhập khẩu và các khoản nợ nước ngoài. Nhưng dự trữ ngoại hối của họ phần lớn là trái phiếu kho bạc chứ không phải những “đồng bạc xanh” thực sự. Tuy nhiên, khi FED tăng lãi suất, giá trị của các tờ trái phiếu lại sụt giảm. Do đó, dường như mục tiêu chính của các ngân hàng trung ương khi mua thêm vàng chỉ là để thêm vào phần hao hụt hơn là do sự dự đoán rằng Fed sẽ kiểm soát lạm phát thành công.
Ngoài ra, dường như vẫn còn những “động cơ” khác. Vàng là một cách tốt giúp tránh lệnh trừng phạt mà phương Tây áp đặt lên Nga, trong khi phần lớn dự trữ của Nga đã bị đóng băng kể từ tháng 3 và các ngân hàng của họ hầu như đã bị ngắt kết nối với hệ thống thanh toán quốc tế. Hầu như không có ngân hàng trung ương nào chọn đồng Rúp làm dự trữ ngoại tệ. Đối với những quốc gia xưa nay vẫn có mối quan hệ làm ăn với điện Kremlin - từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Turkmenistan - vàng trở thành một phương tiện trao đổi. Nhóm các thị trường mới nổi đa dạng này là một trong những người mua vàng lớn nhất hiện nay.
Đây không phải là điều mà phương Tây có thể can thiệp. Vàng Nga bị cấm giao dịch trên thị trường London, nhưng không ai có thể can thiệp vào lượng vàng dự trữ của nước này (phần lớn được khai thác từ các mỏ nội địa). Đến nay Ngân hàng Trung Ương Nga cũng đã ngừng tiết lộ chi tiết họ đang nắm giữ bao nhiêu vàng. Việc vận chuyển vàng cũng là một vấn đề “ đau đầu” nhưng phương Tây không thể theo dõi hết những giao dịch như vậy và điều đó hữu ích cho cả 2 bên – như Qatar hay Thổ Nhĩ Kỳ. Theo hội đồng vàng thế giới, một lượng lớn vàng đang được nắm giữ bởi những nhà đầu tư ẩn danh.
Có một tin mừng cho đồng Dollar là không có đồng tiền nào khác mạnh lên. Tỷ trọng dự trữ đồng Nhân Dân Tệ trên toàn cầu đã chững lại trong năm nay. Đồng Euro, đồng Yên và Bảng Anh cũng đang giậm chân tại chỗ. Các ngân hàng trung ương đang lên cơn “sốt” vàng nhưng cấu trúc của toàn hệ thống sẽ không hề thay đổi.
The Economist