Báo cáo Phân tích: Tiềm năng Tăng trưởng của Nền Kinh tế Hoa Kỳ (Phần 2)

Kiều Hồng Minh
Junior Analyst
Tăng trưởng lực lượng lao động là một trong những yếu tố quyết định chính đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng. Trong phần này, chúng tôi sẽ đi sâu vào phân tích lực lượng lao động của nền kinh tế Hoa Kỳ

Phần II: Tăng trưởng lực lượng lao động
Yếu tố Dân số
Như chúng tôi đã lưu ý trong phần đầu tiên, tăng trưởng lực lượng lao động là một trong những yếu tố quyết định chính đối với tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng của một nền kinh tế. Xu hướng giảm trong tốc độ tăng trưởng kinh tế tiềm năng của Hoa Kỳ đã diễn ra trong vài thập kỷ qua một phần đến từ sư suy yếu trong tăng trưởng lực lượng lao động, sâu xa hơn là đếm từ sự chậm lại trong tăng trưởng dân số. Nhưng trong những năm gần đây, tăng trưởng lực lượng lao động đã mạnh mẽ, trung bình 1.8% mỗi năm vào năm 2022 và 2023. Mặc dù một phần của mức tăng trưởng lực lượng lao động mạnh mẽ đến từ việc thị trường lao động ảm đạm trong thời kỳ đại dịch, nhưng tăng trưởng dân số cũng đã cho thấy dấu hiệu tăng lên gần đây.
Cục Thống kê Lao động (BLS) ước tính rằng: Dân số không thuộc các cơ quan dân sự (CNIP), nguồn lao động tiềm năng của nền kinh tế, đã tăng khoảng 1% mỗi năm trong hai năm qua, cao hơn 10% so với tốc độ trung bình trong giai đoạn những năm 2010-2019 và tăng đáng kể so với giai đoạn 2020-2021 khi đại dịch COVID-19 khiến tỷ lệ tử vong tăng cao hơn. Làn sóng nhập cư cũng đã thúc đẩy sự tăng trưởng dân số kể từ năm 2021 và làm tăng khả năng tăng trưởng lực lượng lao động mạnh mẽ hơn có thể chuyển hóa mức tăng trưởng kinh tế tiềm năng của Hoa Kỳ sang một cấp độ cao hơn. Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO) ước tính lượng nhập cư ròng vào năm 2022 và 2023 lần lượt là 2.7 triệu và 3.3 triệu người, gấp ba lần mức trung bình hàng năm của giai đoạn 2010-2019. Sự nhảy vọt này một phần đến từ sự phục hồi của lượng thị thực liên quan đến công việc bắt đầu vào năm 2022. Tuy nhiên, sự gia tăng của những người nhập cư có thị thực làm việc hoặc du học, cũng như thường trú nhân hợp pháp, đã ở mức tương tự như thập kỷ trước.
Lượng người nhập cư nhập cư vào Mỹ theo các chế độ
CBO ước tính rằng phần lớn sự gia tăng nhập cư gần đây bắt nguồn từ yếu tố “các công dân nước ngoài khác” (tức là những người không có tư cách pháp lý). Cụ thể, CBO ước tính sẽ có thêm 2.9 triệu người tham gia lực lượng lao động trong năm nay so với ước tính trước đó được công bố vào đầu năm 2023, với “phần lớn mức tăng đó đến từ lượng nhập cư ròng dự kiến cao hơn”. Dữ liệu riêng biệt do BLS công bố cũng cho thấy lao động sinh ra ở nước ngoài là nguồn tăng trưởng lực lượng lao động đáng kể trong những năm gần đây. Dữ liệu của BLS không phân biệt giữa những người sinh ra ở nước ngoài được Hoa Kỳ tiếp nhận hợp pháp và những người nhập cư không có giấy tờ, nhưng tổng số lao động sinh ra ở nước ngoài đã chiếm 56% mức tăng trưởng của lực lượng lao động Hoa Kỳ trong hai năm qua.
Tăng trưởng lực lượng lao động tại Mỹ theo nơi sinh (Sinh tại Mỹ: Xanh đậm, Sinh tại các quốc gia khác: Màu tím)
Tuy vậy, cả BLS và CBO đều dự báo tăng trưởng dân số sẽ chậm lại trong những năm tới. Cụ thể, cả hai cơ quan đều dự báo dân số không thuộc các cơ quan dân sự (CNIP) sẽ tăng ít hơn mức 1.0% mỗi năm từ năm 2024 đến năm 2032. Không bao gồm các cá nhân ở độ tuổi nghỉ hưu (65+), CNIP được ước tính sẽ tăng trưởng dưới 0.5% mỗi năm, điều này sẽ đánh dấu sự chậm lại đáng kể trong tăng trưởng của nguồn lao động tiềm năng so với các thập kỷ trước. Triển vọng tăng trưởng dân số trong độ tuổi lao động chậm lại trong lịch sử là một yếu tố góp phần vào kỳ vọng rằng tăng trưởng kinh tế của Hoa Kỳ sẽ chậm hơn trong những năm tới so với mức trung bình khoảng 3.5% trong thời điểm kết thúc Thế chiến II và cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Mức tăng trưởng dân số không thuộc các cơ quan dân sự trong quá khứ và dự báo của BLS & CBO
Nhập cư có thể là yếu tố thay đổi quan trọng nhất trong triển vọng dân số Hoa Kỳ. CBO ước tính rằng trong thập kỷ tới, tăng trưởng dân số tự nhiên — chênh lệch giữa số ca sinh và số ca tử vong — sẽ chậm lại khoảng một nửa so với tốc độ được ghi nhận trong khoảng thời gian 2010-2019. Tuy nhiên, lượng người nhập cư dự kiến sẽ làm giảm tác động đến tăng trưởng dân số. CBO ước tính lượng nhập cư ròng sẽ vẫn ở mức cao trong vài năm tới trước khi trở lại tốc độ phù hợp hơn với lịch sử gần đây. Tuy nhiên, vẫn còn những sự không chắc chắn đáng kể xung quanh những ước tính này.
Tăng trưởng dân số tự nhiên (màu xanh) và tăng trưởng dân số từ lượng người nhập cư (màu đỏ) tại Hoa Kỳ
Điều kiện kinh tế và các chính sách ở Hoa Kỳ và nước ngoài ảnh hưởng đến tỷ lệ nhập cư, khiến dữ liệu này trở nên khó dự đoán. Từ quan điểm kỹ thuật hơn, việc ước tính nhập cư có thể là một thách thức do cần phải đưa ra các giả định xung quanh số lượng cá nhân có thể nhập cư trái phép vào Hoa Kỳ mà không bị phát hiện, tỷ lệ những người bị giữ lại ở biên giới trong nước cũng như tỷ lệ mà các cá nhân chưa gia hạn thị thực tạm thời. Tuy nhiên, dân số Hoa Kỳ già đi cùng với tỷ lệ sinh giảm mạnh kể từ năm 2007 cho thấy sự giảm rõ rệt trong đóng góp “tự nhiên” cho tăng trưởng dân số Hoa Kỳ. Điều này khiến cho tăng trưởng lực lượng lao động đang trên đà suy giảm mà không có sự bù đắp từ dân số sinh ra ở nước ngoài hoặc sự gia tăng trong tỷ lệ tham gia lực lượng lao động.
Tỷ lệ sinh tại Hoa Kỳ
Tỷ lệ Tham gia Lực lượng Lao động
Tăng trưởng dân số không phải là yếu tố duy nhất quyết định đóng góp cho tăng trưởng GDP tiềm năng. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (LFPR) cũng rất quan trọng đối với triển vọng tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ tới. Nói một cách đơn giản, lực lượng lao động tượng trưng cho kích thước của chiếc bánh độ tuổi lao động, trong khi LFPR là tỷ lệ phần trăm chiếc bánh đó mà chúng ta có thể ăn được. LFPR đối với công dân từ 16 tuổi trở lên đạt đỉnh vào năm 2000 và đã giảm dần kể từ đó. Sự sụt giảm này một phần có thể là do tỷ lệ dân số già đang dần tăng lên trong 1/4 thế kỷ qua, bởi khi tỷ lệ công dân không còn trong độ tuổi lao động cao hơn, LFPR sẽ giảm và ngược lại.
Tỷ lệ công dân tham gia lực lượng lao động (LFPR)
Không có gì ngạc nhiên khi hầu hết các nhà phân tích đều kỳ vọng LFPR sẽ suy yếu trong thập kỷ tới khi dân số tiếp tục già đi. CBO dự báo tỷ lệ dân số từ 65 tuổi trở lên sẽ tăng gần 3 điểm phần trăm trong thập kỷ tới. Với người lớn từ 65 tuổi trở lên ít có khả năng tham gia vào thị trường lao động, dân số già dự kiến sẽ là yếu tố chính khiến LFPR giảm từ mức 62.7% hiện nay xuống còn 61.4%.
Tỷ lệ người trên 65 tuổi đang gia tăng trên tỷ lệ dân số (màu xanh, trục bên trái) và tỷ lệ tham gia thị trường lao động (màu đỏ, trục bên phải)
Tuy nhiên, LFPR thực gây ngạc nhiên theo hướng tích cực trong thập kỷ qua. CBO đã liên tục dự báo sự sụt giảm mạnh mẽ của LFPR từ nửa cuối những năm 2010 nhưng tỷ lệ này vẫn cao hơn nhiều so với dự báo của cơ quan này.
Tỷ lệ tham gia thị trường lao động thực và dự báo của CBO qua từng năm
Vậy câu hỏi cần được đặt ra là mức LFPR cao hơn trong thập kỷ tới có thể đóng góp vào tăng trưởng GDP tiềm năng ở mức độ nào?
Để minh họa cho kết quả này, chúng tôi đã tạo ra một kịch bản trong đó LFPR cao hơn 0.5 điểm phần trăm trong thập kỷ tới so với dự báo của CBO. Theo kịch bản này, lực lượng lao động tăng trưởng 0.7% mỗi năm so với 0.6% mỗi năm trong dự báo cơ sở của CBO và đóng góp của lao động cho mức tăng trưởng GDP tiềm năng cao hơn khoảng 0.1 điểm phần trăm so với dự báo của CBO.
Đáng chú ý, mức tăng ~ 0.5 điểm phần trăm trong tỷ lệ tham gia lực lượng lao động so với dự báo cơ sở của CBO không phải là không có khả năng xảy ra. Dự báo 10 năm của CBO được công bố vào đầu năm 2014 ước tính tỷ lệ tham gia lực lượng lao động sẽ trung bình là 62.1% vào năm 2023 . Dữ liệu cho thấy tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trung bình lúc đó là 62.5%, cao hơn khoảng 45 điểm cơ bản so với dự báo của CBO.
Triển vọng Tỷ lệ Tham gia Lực lượng Lao động thời gian tới
Chúng tôi thấy một vài yếu tố thuận lợi có thể hỗ trợ tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong những năm tới theo hướng tích cực. Bất chấp các tin tức về việc doanh nghiệp thúc đẩy nhân viên quay trở lại làm việc tại văn phòng, tỷ lệ nhân viên làm việc từ xa toàn thời gian và bán thời gian đã tăng lên trong năm qua. Xét theo giới tính, phụ nữ có xu hướng làm việc từ xa mạnh nhất. Tính linh hoạt của loại hình làm việc từ xa đã tạo ra sự phục hồi mạnh mẽ trong tỷ lệ tham gia thị trường lao động của phụ nữ trong độ tuổi lao động (25-54), đặc biệt là đối với những người có con nhỏ. Hơn nữa, việc ngày càng có nhiều phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn, trì hoãn kết hôn, lập gia đình muộn hơn và có ít con hơn cũng có thể hỗ trợ tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ gia tăng trong dài hạn
Mức tăng của tỷ lệ LFPR theo yếu tố nhân khẩu học (Từ trái qua phải: Đàn ông trong độ tuổi lao động chính, phụ nữ trong độ tuổi lao động chính, phụ nữ không có con, phụ nữ có con từ 6-17 tuổi, phụ nữ có con dưới 6 tuổi)
LFPR cho nam giới trong độ tuổi lao động cũng đã phục hồi ấn tượng trong chu kỳ này và lần đầu tiên kể từ đầu những năm 1960, nó đã vượt qua mức đỉnh của chu kỳ trước. Sự phục hồi đã được thúc đẩy bởi sức mạnh chung của thị trường việc làm cũng như khả năng phục hồi của thị trường này trong các ngành nhạy cảm theo chu kỳ hơn — và do nam giới thống trị — chẳng hạn như xây dựng, sản xuất và khai thác mỏ. Hỗ trợ tài chính cho chi tiêu cơ sở hạ tầng, chẳng hạn như Đạo luật Đầu tư & Việc làm Cơ sở hạ tầng và Đạo luật Chip & Khoa học, nỗ lực của khu vực tư nhân nhằm giảm rủi ro chuỗi cung ứng và giữ chân ngành sản xuất gần hơn với thị trường Hoa Kỳ và tình trạng thiếu nhà ở có thể giúp tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới trong độ tuổi lao động tăng hơn nữa trong những năm tới thông qua các gói hỗ trợ cho các ngành do nam giới thống trị.
Tỷ lệ tham gia thị trường lao động của nam giới
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người lao động lớn tuổi cũng khả năng gia tăng. Người lao động lớn tuổi ít có khả năng trở lại thị trường lao động sau khi rời đi hơn so với người lao động trẻ tuổi, điều này đã góp phần vào sự phục hồi chậm hơn và không hoàn chỉnh trong chu kỳ này. Tuy nhiên, nếu không có một cú sốc như COVID-19 để loại bỏ những người lao động ở độ tuổi nghỉ hưu khỏi thị trường việc làm, tỷ lệ tham gia của nhóm này có thể tăng hơn nữa do tỷ lệ rời đi thấp hơn. Sự sụt giảm tỷ lệ lao động làm việc trong các công việc đòi hỏi thể chất, tuổi thọ ngày càng tăng và xu hướng chuyển từ phúc lợi xác định sang đóng góp xác định của các kế hoạch trợ cấp nghỉ hưu có thể giúp duy trì xu hướng tăng trong tỷ lệ tham gia của người lao động “ở độ tuổi nghỉ hưu” từ khoảng giữa những năm 1980.
Tỷ lệ tham gia thị trường lao động của dân số từ 65 đến 74 tuổi
Cuối cùng, làn sóng nhập cư dai dẳng hơn so với dự kiến cũng có thể giúp tạo ra LFPR cao hơn so với dự báo của CBO. Lao động sinh ra ở nước ngoài có xu hướng tham gia vào thị trường lao động cao hơn. Khoảng cách tham gia giữa dân số sinh ra ở nước ngoài và dân số sinh ra trong nước đã mở rộng lên hơn bốn điểm phần trăm trong năm qua. LFPR cao hơn ở những người lao động sinh ra ở nước ngoài bắt nguồn từ việc dân số trẻ hơn dân số bản địa, với 59% dân số sinh ra ở nước ngoài trong độ tuổi lao động “chính” của họ là 25-54 so với mức 46% của dân số sinh ra trong nước.
Tỷ lệ tham gia thị trường lao động của lao động sinh ra trong nước (Màu xanh) và sinh ra ở nước ngoài (Màu đỏ)
Rủi ro đối với Tỷ lệ Tham gia Lực lượng Lao động
Tuy nhiên, cũng có những lý do để thận trọng về triển vọng của tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Mặc dù tỷ lệ tham gia của nam giới và phụ nữ trong độ tuổi lao động chính đã phục hồi ấn tượng kể từ sau đại dịch, nhưng tốc độ này đã giảm dần trong năm qua. Làm việc từ xa đã hỗ trợ sự phục hồi trong tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, nhưng để có thể thúc đẩy tỷ lệ LFPR một cách bền vững, xu hướng làm việc này sẽ cần tiếp tục phổ biến hơn. Điều này có thể khó khăn, vì hầu hết các công ty đã bị buộc phải thử nghiệm làm việc từ xa, cho thấy sự phổ biến của làm việc từ xa có thể sẽ tăng dần hoặc có thể đảo ngược, trong một thị trường lao động mà nhà tuyển dụng có nhiều ảnh hưởng hơn so với trong cơn sốt tuyển dụng năm 2021-2022.
Nguy cơ dòng người lao động nhập cư giảm nhanh hơn dự kiến cũng có thể xảy ra. Điều này có thể xảy ra do những thay đổi chính sách ở cả hai phía của biên giới, hoặc những thay đổi trong điều kiện kinh tế trong nước và / hoặc nước ngoài làm giảm các yếu tố “đẩy” và “kéo” đối với người lao động sinh ra ở nước ngoài đến Hoa Kỳ.
Nói chung, với việc thị trường lao động nhanh chóng phục hồi sau đại dịch và mang lại nhiều cơ hội cho người lao động trong những năm gần đây. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động trong 10 năm qua cho thấy tín hiệu tích cực nếu so với đường cơ sở năm 2014 của CBO khi sự phục hồi từ cuộc Đại suy thoái (GFC) cuối cùng đã bắt đầu xuất hiện. Vào năm 2014, tỷ lệ tham gia của công dân trong độ tuổi lao động chính vẫn thấp hơn 2.2 điểm phần trăm so với mức đỉnh trước GFC, tạo cơ hội cho sự phục hồi nếu cơ hội việc làm trở nên dồi dào hơn, trong khi ngày nay tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của những người từ 25-54 tuổi đã cao hơn 0.3 điểm so với mức đỉnh của chu kỳ trước đó.
Việc thắt chặt chính sách tài khóa trong thập kỷ tới để giải quyết tình trạng thâm hụt ngân sách kinh niên có thể tiếp tục là một trở ngại đối với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Trong khi thuế cá nhân và doanh nghiệp đã được giảm vào năm 2018, khoảng cách lớn giữa doanh thu và chi tiêu làm tăng khả năng tăng thuế trong những năm tới để đưa thâm hụt của Hoa Kỳ đi đúng hướng. Nếu được thực hiện, mức thuế suất cao hơn đối với thu nhập từ lao động, bên lề, sẽ làm giảm số giờ làm việc của một số cá nhân có khả năng lực chọn và khiến một số người không tham gia vào thị trường lao động.
Tỷ lệ nguồn thu ngân sách và chi tiêu ngân sách trên GDP
Nói chung, chúng tôi cho rằng, những thuận lợi đối với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động sẽ làm lu mờ những trở ngại. Tuy nhiên, tác động của mức LFPR cao hơn đối với tăng trưởng GDP tiềm năng có thể sẽ ở mức nhỏ.
Đóng góp của Lao động rất quan trọng, nhưng Năng suất là yếu tố quyết định
Nhìn chung, sự kết hợp của tăng trưởng dân số nhanh hơn thông qua nhập cư nhiều hơn và tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao hơn có thể làm tăng tăng trưởng GDP tiềm năng thêm khoảng 0.1-0.3 điểm phần trăm mỗi năm trong thập kỷ tới so với thập kỷ trước. Thế nhưng, vẫn còn nhiều yếu tố bất định. Đầu tiên, sự bùng nổ nhập cư có tiếp tục hay không và liệu tỷ lệ tham gia cao hơn có được hiện thực hóa hay không. Thứ hai, tăng trưởng GDP tiềm năng cao hơn chỉ một chút là không đủ để bắt kịp mức tăng 3% trong thời gian dài. Thứ ba, điều quan trọng nhất là những yếu tố này có thể thúc đẩy tăng trưởng của cả nền kinh tế, nhưng chưa chắc đã thúc đẩy tăng trưởng GDP bình quân đầu người, chỉ báo quan trọng cho sự phát triển mức sống của người dân.
Tất nhiên, điều này không có nghĩa là tăng trưởng GDP tiềm năng nhanh hơn không có tác động thực tế. Ví dụ, nguồn cung lao động mạnh mẽ hơn có thể giúp cải thiện triển vọng tài khóa liên bang. Dân số Hoa Kỳ già đi đang gây áp lực đáng kể về mặt cấu trúc lên ngân sách liên bang khi tăng trưởng lực lượng lao động chậm và phải tăng chi tiêu cho các chương trình bắt buộc như Medicare và An sinh Xã hội.
Tỷ lệ chi tiêu ngân sách cho các chương trình Medicare (màu đỏ) và trợ cấp xã hội (màu xanh) trên GDP
Tăng trưởng lực lượng lao động ở mức 1.0% mỗi năm trong thập kỷ tới sẽ làm giảm tỷ lệ nợ trên GDP của chính phủ liên bang khoảng 5 điểm phần trăm so với dự báo cơ sở của CBO ở mức tăng trưởng lực lượng lao động 0.6% mỗi năm. Sự khác biệt như vậy là không đủ để tự mình giải quyết những thách thức tài khóa dài hạn của Mỹ, nhưng mọi thứ đều có ích và tăng trưởng lực lượng lao động nhanh hơn không dẫn đến những sự đánh đổi đau đón về mặt chính sách như cắt giảm phúc lợi hoặc tăng thuế.
Tỷ lệ nợ/GDP trong trường hợp LFPR ở mức 0.6% (màu xanh) và 1.0% (màu đỏ)
Có thể nói, tăng trưởng năng suất lao động cuối cùng là bí quyết dẫn đến việc nâng cao mức sống trong dài hạn. Trong Phần III và IV, chúng tôi sẽ khám phá triển vọng tăng trưởng năng suất lao động trong thập kỷ tới.
Wells Fargo