Đánh giá lạm phát và thị trường việc làm của Mỹ hiện tại. Đó là xu hướng đang tăng lên hay giảm đi?
Huyền Trần
Junior Analyst
Những dữ liệu gần đây về nền kinh tế Hoa Kỳ đang đưa ra nhiều vấn đề hơn là một câu trả lời thỏa đáng, dẫn đến nhiều nỗi lo ngại về thị trường.
Bộ Lao động đã đưa ra những dữ liệu mâu thuẫn nhau, nó được lý giải phụ thuộc vào cách mà các nhà đầu tư đọc dữ liệu về chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) mới nhất, nó có thể được hiểu là đang có hàng trăm nghìn việc làm được tạo ra hoặc đang mất đi hơn một triệu việc làm. Và lạm phát vẫn duy trì ở mức cao hoặc đã giảm xuống dưới mức trước đại dịch.
Sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ Fed đã đưa ra quyết định để giữ mức lãi suất, các nhà đầu tư đã có những kết luận trái ngược với Fed và sự đồng thuận của thị trường hiện tại.
Tính đến thời điểm hiện tại, các nhà đầu tư cổ phiếu cố định và cổ phiếu của các công ty có mức vốn hóa lớn đã lý giải các con số theo hướng thuận lợi sau khi nhận thấy có nhiều việc làm được tạo ra và mức lạm phát cao hơn dự kiến. Trong khi các nhà giao dịch lãi suất đang giảm kỳ vọng về việc Ngân hàng Trung ương sẽ cắt giảm lãi suất (Hình 1), đồng thời đẩy chỉ số S&P 500 và Nasdaq-100 lên những kỷ lục mới.
Hình 1: Các nhà đầu tư cố định đã giảm bớt kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất cho tới thời điểm hiện tại
Ngược lại, các nhà đầu tư vào các công ty có mức vốn hóa nhỏ theo chỉ số Russell 2000 dường như đang đối mặt với một bức tranh u ám, bởi các doanh nghiệp có quy mô nhỏ đang gặp khó khăn và tốc độ mất việc đang xảy ra nhanh chóng.
Kể từ khi đạt đỉnh vào năm 2021, chỉ số Russell 2000 thấp hơn mức trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 3 tháng gần 20%, trong khi đó các cổ phiếu vốn hóa lớn không bị ảnh hưởng (Hình 2). Giá vàng, thường giảm mạnh khi lãi suất cao kéo dài, đã đạt đến mức cao mới.
Hình 2: Các doanh nghiệp có vốn hóa nhỏ gặp khó khăn trong khi doanh nghiệp vốn hóa lớn phát triển.
Dường như các nhà đầu tư trong lĩnh vực trái phiếu và có mức vốn hóa lớn đang bị chi phối bởi các dữ liệu khác so với những nhà đầu tư trong lĩnh vực cổ phiếu nhỏ và vàng. Thực tế, điều này có thể xảy ra. Cả hai báo cáo về việc làm và lạm phát đều chứa nhiều chuỗi dữ liệu- trong đó có nhiều dữ liệu đối nghịch nhau.
Dựa trên hai báo cáo hàng đầu về vấn đề việc làm của Bộ Lao động, chỉ trong vòng ba tháng qua, nền kinh tế Mỹ đã tăng thêm hơn 700.000 việc làm, hoặc đã mất gần 1,5 triệu việc làm.
Trong cuộc điều tra doanh nghiệp, dữ liệu được thu thập chủ yếu từ các doanh nghiệp lớn và trung bình, đã cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ trong số lượng việc làm (ngoại trừ lĩnh vực nông nghiệp) trong ba tháng qua là 708.000 việc làm được tạo ra từ đầu tháng 12. Sự tăng trưởng này bằng với mức tăng từ năm 2010-2019, điều này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của thị trường lao động Mỹ.
Ngược lại, cuộc điều tra về hộ gia đình đã chỉ ra thị trường lao động Hoa Kỳ đã mất gần 1,474 triệu việc làm trong cùng thời kỳ (Hình 3). Thông qua việc thu thập dữ liệu từ 60.000 người Mỹ mỗi tháng thay vì điều tra từ phía các nhà tuyển dụng. Số liệu về việc làm của nó kém hơn nhiều so với cuộc điều tra doanh nghiệp trong những năm 1990, một thời kỳ mà các cổ phiếu nhỏ bị lép vế hoàn toàn trước những cổ phiếu có mức vốn hóa lớn.
Hình 3: Nhiều nguồn dữ liệu trái ngược nhau thể hiện Hoa Kỳ đã có thêm 700 nghìn việc làm hoặc mất 1,5 triệu việc làm
Chi phí vay có thể là nguyên nhân dẫn đến sự đối lập ở thời điểm hiện tại. Trong khi các công ty lớn có thể gọi vốn dài hạn bằng cách phát hành trái phiếu vào năm 2020 và 2021- khi lãi suất ở mức thấp trong lịch sử, thì các công ty nhỏ hơn lại phải phụ thuộc vào các khoản vay ngân hàng.Từ đó đến nay, lãi suất đã tăng trên 500 điểm. Ngoài ra,các công ty lớn còn có thêm 5% lợi nhuận mỗi năm chỉ bằng cách nắm giữ chứng khoán ngắn hạn.
Về mặt lạm phát, tùy thuộc vào mức độ quan trọng mà các nhà đầu tư chú ý vào tiền thuê tương đương của chủ sở hữu- yếu tố quan trọng của Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ, mà có thể đưa ra những kết luận khác nhau. Trong tháng Ba, chỉ số lạm phát cốt lõi đã gây nhiều bất ngờ khi tăng 3,8%, điều này khiến thị trường thay đổi suy nghĩ về kỳ vọng Fed cắt giảm lãi suất.
Tuy nhiên, nguyên nhân chính của lạm phát kéo dài đến từ tiền thuê tương đương của chủ sở hữu khi giả định rằng chủ sở hữu nhà thuê tài sản của chính họ. Con số này đã tăng ở mức 6% mỗi năm và chiếm gần một phần tư chỉ số CPI cốt lõi. Sau khi loại bỏ ảnh hưởng này, dựa theo cách tính của Châu Âu thì chỉ số CPI của Mỹ đang ở mức 1,9% chứ không phải 3,2%. Điều này cho thấy chỉ số CPI của Mỹ đang chỉ ở mức 2,5%, không mấy khác biệt so với tình hình trước đại dịch. Nó cũng đồng nghĩa với việc lãi suất thực tế của Fed đang ở mức 3% gần bằng mức 18 tháng trước khủng hoảng tài chính.
Liệu Fed có phản ứng thái quá và siết chặt chính sách tiền tệ quá mức khi quá tập trung vào chỉ số lạm phát cốt lõi. Thị trường trái phiếu không nghĩ vậy. Thị trường đang ước tính lãi suất của Fed sẽ giảm dần từ mức hiện tại ở khoảng 5.25% - 5.50% xuống còn 3.75%. Ngược lại, nhà đầu tư vàng có thể đang tích trữ và mong đợi các đợt cắt giảm lãi suất sâu hơn. Mặc dù thường phản ứng tiêu cực khi lãi suất tăng cao, sự tăng giá của vàng gần đây đến mức cao kỷ lục có thể là dấu hiệu cho thấy nhà đầu tư kỳ vọng Fed sẽ thực hiện các cắt giảm lãi suất sâu hơn trong tương lai.
Các nhà đầu tư đã tiến hành phân tích dữ liệu kinh tế Hoa Kỳ để kiểm soát rủi ro và đưa ra nhiều kịch bản khác nhau . Một nền kinh tế phát triển mạnh mẽ với lạm phát kéo dài. Hay là một kịch bản goldilocks với việc làm dồi dào và lạm phát thấp. Có thể là tình trạng suy thoái kiểu thập kỷ 1970. Hoặc giai đoạn sớm của một cuộc suy thoái kinh điển. Cuối cùng, sẽ có một kịch bản chiếm ưu thế. Nhưng ngay lúc này, các nhà đầu tư có thể dựa vào các dữ liệu và đưa ra kết luận cho riêng mình.
CME Group