Sau báo cáo việc làm đáng thất vọng của Mỹ vào tháng 7 và sự hoảng loạn ngắn ngủi nhưng dữ dội của thị trường sau đó, thông điệp của nhiều nhà kinh tế là: “Tất cả hãy bình tĩnh”. Sau báo cáo tháng 8 chỉ tốt hơn một chút, điều này vẫn là thông điệp đúng đắn. Thị trường đang “thì thầm” với nhau rằng: vẫn chưa có cuộc suy thoái nào ở phía trước.
Tưởng tượng một ngày trong tháng vừa qua, 818,000 việc làm bỗng dưng "bốc hơi" khỏi nền kinh tế Mỹ. Nghe có vẻ giật gân, nhưng sự thật có phải vậy không? Thực ra, cách diễn đạt chính xác hơn là: chính phủ vừa cập nhật con số ước tính chính thức về việc làm dựa trên những thông tin mới nhất. Dù đáng chú ý, bản điều chỉnh sơ bộ này không nên làm lung lay niềm tin của công chúng.
Có rất nhiều lời than phiền về Fed trong những năm qua: Alan Greenspan đã hạ lãi suất quá nhiều sau vụ sụp đổ dot-com năm 2000. Ben Bernanke đã in quá nhiều tiền để cứu trợ các ngân hàng trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Janet Yellen đã giữ lãi suất ở mức quá thấp trong thời gian quá dài vào giữa những năm 2010. Jerome Powell đã quá chậm để thấy được lạm phát sắp bùng phát - và giờ đây ông ấy cũng quá chậm để phát hiện ra suy thoái.
Khi một nền kinh tế suy yếu trong hai quý liên tiếp, nền kinh tế đó thường được coi là đang trong tình trạng suy thoái. Các nhà hoạch định chính sách châu Âu hy vọng rằng hai quý tăng trưởng liên tiếp cũng sẽ mang lại ánh nhìn tích cực tương tự. Dữ liệu công bố ngày 14/8 cho thấy, trong quý thứ hai của năm, nền kinh tế EU một lần nữa tăng trưởng 0.3% so với quý trước. Mặc dù không có gì đáng chú ý theo tiêu chuẩn của Mỹ, mức tăng trưởng như vậy là một sự “nhẹ nhõm” sau hơn một năm trì trệ.
Trong hơn hai năm, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã đẩy lãi suất lên cao để làm chậm lạm phát trong khi hy vọng rằng chúng không đẩy nền kinh tế vào suy thoái. Đây là một hành động mạo hiểm sẽ dễ dàng hơn nếu có một thước đo đáng tin cậy về vị trí rủi ro suy thoái tại bất kỳ thời điểm cụ thể nào. Những lo lắng do báo cáo việc làm yếu kém vào tháng 7 đã tăng cao bởi thực tế là dữ liệu đã kích hoạt cái được gọi là quy tắc Sahm, do nhà kinh tế học Claudia Sahm đưa ra và đặt tên. Nhưng Sahm là một trong số nhiều nhà kinh tế cho rằng lần này có thể khác - rằng sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp có thể liên quan nhiều hơn đến hậu quả của đại dịch.
Báo cáo việc làm yếu hơn dự kiến vào thứ 6 đã làm dấy lên một cuộc tranh luận mạnh mẽ về việc liệu nền kinh tế có đang tiến tới suy thoái, hay liệu việc tỷ lệ thất nghiệp tăng vào tháng 7 có phải là do thị trường lao động tiếp tục bình thường hóa sau đại dịch hay không. Bất kể thuộc phe nào, Fed đều nên có những động thái nhanh chóng, cắt giảm lãi suất 100 bps xuống còn 4.25%-4.5% tính đến cuối năm để quản lý rủi ro.
Khi các đợt cắt giảm lãi suất của Mỹ đang đến gần, các nhà đầu tư phải đối mặt với một thách thức mới: xác định xem Fed có thể nới lỏng chính sách tiền tệ với tốc độ phù hợp để đạt được mục tiêu hạ cánh mềm, đã giúp thúc đẩy giá tài sản trong năm nay, như mong muốn hay không.
Khi Fed báo hiệu về hướng đi có thể của chính sách tiền tệ cho các nhà đầu tư tuần này, bao gồm đợt cắt giảm lãi suất dự kiến bắt đầu vào tháng 9, có vẻ họ không thể tiếp tục thờ ơ với thị trường lao động nữa.
Sau một khoảng thời gian đi ngang dai dẳng, lạm phát đã suy yếu ở nhiều nền kinh tế và kỳ vọng các NHTW cắt giảm lãi suất điều hành đã trở lại trong ngắn hạn. Vậy con đường của Australia nói chung và RBA nói riêng có gì khác biệt so với các quốc gia trên?
Đồng AUD phục hồi khi thị trường lao động thắt chặt làm dấy lên lo ngại về khả năng tăng lãi suất từ RBA. PBoC đã cắt giảm lãi suất cơ bản kỳ hạn 1 năm và 5 năm xuống 10 điểm cơ bản, lần lượt còn 3.35% và 3.85%. Tổng thống Mỹ Joe Biden tuyên bố sẽ không tái tranh cử chống lại cựu Tổng thống Donald Trump.
Đồng Aussie mở rộng đà giảm phiên thứ năm liên tiếp vào thứ Sáu. Đà giảm của AUD có thể bị hạn chế do khả năng tăng lãi suất từ RBA. Đồng USD có thể gặp khó khăn khi dữ liệu lao động yếu đi củng cố kỳ vọng Fed hạ lãi suất vào tháng 9.